Pháp luật hiện hành quy định việc bảo vệ người thứ ba ngay tình trong các giao dịch dân sự. Người thứ ba ngay tình là ai? Khi nào người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi trong giao dịch dân sự? Giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng thế nào? Cùng Luật sư X tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng
Điều 180 BLDS 2015 quy định chiếm hữu ngay tình là “việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu”. Người thứ ba ngay tình tham gia trong các giao dịch được hiểu là người tại thời điểm giao dịch không có cơ sở để biết và không buộc phải biết việc thực hiện giao dịch, ký kết hợp đồng là không có căn cứ pháp luật. Có thể hiểu rằng người này hoàn toàn tin đang ký hợp đồng/thỏa thuận với người không có quyền định đoạt đối với tài sản đang được giao dịch.
Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (HNGĐ) quy định đối với giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó.
Cũng theo quy định tại Điều 35 Luật HNGĐ, việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng. Xét ở góc độ bình đẳng giới, pháp luật đã bảo vệ tối đa quyền của người phụ nữ trong lĩnh vực đăng ký quyền sở hữu tài sản đối với nhà ở và quyền sử dụng đất, bảo vệ quyền đối với tài sản của phụ nữ và nam giới trong gia đình và nhằm hạn chế những tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng trong quá trình chung sống. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn gặp rất nhiều khó khăn.
Điều 16 Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định trường hợp chế độ tài sản theo thỏa thuận được áp dụng thì khi xác lập, thực hiện giao dịch vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp cho người thứ ba biết về những thông tin liên quan; nếu vợ, chồng vi phạm nghĩa vụ này thì người thứ ba được coi là ngay tình và được bảo vệ quyền lợi theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó trong trường hợp Bộ luật dân sự có quy định về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình.
Theo khoản 1 Điều 133 Bộ luật Dân sự 2015, trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của Bộ luật này.
Dẫn chiếu đến Điều 167 Bộ luật Dân sự 2015, chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.
Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình
Theo quy định tại Điều 133 và Điều 167 Bộ luật dân sự 2015, giao dịch ngay tình của người thứ ba được chia thành hai trường hợp: giao dịch có hiệu lực và giao dịch bị vô hiệu.
Giao dịch ngay tình của người thứ ba bị vô hiệu
– Thứ nhất, theo quy định tại Điều 167 Bộ luật dân sự 2015, cụ thể: Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.
– Thứ hai, trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu (trừ trường hợp có hiệu lực được phân tích tại điểm b này).
Giao dịch ngay tình của người thứ ba có hiệu lực
– Thứ nhất, trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của Bộ luật Dân sự như đã phân tích tại điểm a nêu trên.
– Thứ hai, Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
– Thứ ba, trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa thì giao dịch không bị vô hiệu.
Mời bạn xem thêm:
- CHIẾM HỮU NGAY TÌNH LÀ GÌ THEO QUY ĐỊNH MỚI CẬP NHẬT NĂM 2022
- BẢO VỆ NGƯỜI NGAY TÌNH TRONG GIAO DỊCH QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT NHƯ THẾ NÀO?
Thông tin liên hệ với Luật sư X
Trên đây là nội dung tư vấn về “Giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng” của Luật sư X. Chúng tôi mong rằng những thông tin chúng tôi mang đến có thể giúp bạn vận dụng trong công việc và cuộc sống.
Để được cung cấp thêm thông tin về các lĩnh vực khác như: mẫu tạm ngừng kinh doanh gửi cơ quan thuế ,công chứng ủy quyền tại nhà, thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp, hợp pháp hóa lãnh sự, …của luật sư X, hãy liên hệ với chúng tôi qua hotline: 0833102102.
Câu hỏi thường gặp
Cụm từ “chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác” tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự phải được áp dụng theo nghĩa rộng. Có nghĩa là không chỉ có những giao dịch nhằm chuyển giao quyền sở hữu như hợp đồng mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn nhà ở; chuyển nhượng, chuyển đổi, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà cả những giao dịch nhằm chuyển giao những quyền về sở hữu đối với tài sản hoặc quyền về sử dụng đối với thửa đất.
Nếu tài sản tham gia giao dịch dân sự mà pháp luật quy định phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì người tham gia giao dịch cần phải tìm hiểu tài sản này có được đăng ký hay chưa, nếu tài sản chưa được đăng ký theo đúng quy định thì không nên giao dịch hoặc chỉ nên tham gia giao dịch dân sự đối với tài sản đã thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản, nhằm trong trường hợp người tham gia giao dịch với đối tượng tài sản của giao dịch liên quan đến giao dịch trước đó đã bị vô hiệu hoặc đối với người không có quyền định đoạt tài sản vì không phải là chủ sở hữu do bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bị hủy, bị sửa.
Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại. Như vậy, pháp luật quy định trong trường hợp chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình thì chủ sở hữu vẫn có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.