Có thể thấy, tranh chấp đòi nhà cho ở nhờ là một trong những tranh chấp phổ biến hiện nay. Nhiều trường hợp cho người quen ở nhờ nhà trong một thời gian nhưng không có hợp đồng thỏa thuận ban đầu vì tin tưởng. Sau đó, khi chủ sở hữu nhà đòi lại nhà cho ở nhờ thì người đó không chịu trả. Hai bên khi đó buộc phải khởi kiện ra Tòa án để được giải quyết về những tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu căn nhà cho ở nhờ. Sau đây, Luật sư X sẽ cung cấp thông tin về một bản án tranh chấp đòi nhà cho ở nhờ trên thực tế và phân tích để giúp quý bạn đọc hiểu rõ hơn về vấn đền này. Hi vọng bài viết sẽ đem lại nhiều thông tin hữu ích cho quý bạn đọc.
Căn cứ pháp lý
Đương sự trong bản án đòi nhà cho ở nhờ
Đương sự trong bản án đòi nhà cho ở nhờ như sau:
Trong ngày 6 tháng 12 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 122/2017/TLPT-DS ngày 6 tháng 10 năm 2017 về việc “Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất cho ở nhờ”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 19/2017/DS-ST ngày 22-8-2017 của Tòa án nhân dân huyện T bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 212/2017/QĐPT-DS ngày 23 tháng 10 năm 2017, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1- Ông Diệp Văn H, sinh năm 1948.
Địa chỉ: ấp P, xã L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.
1.2- Bà Diệp Thị L, sinh năm 1959.
Địa chỉ: ấp G, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.
1.3- Bà Diệp Thị H1, sinh năm 1961.
1.4- Bà Diệp Thị T2, sinh năm 1963.
Cùng địa chỉ: ấp G, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng
1.5- Bà Diệp Thị T, sinh năm 1967.
Địa chỉ: ấp G, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.
1.6- Bà Diệp Thị K, sinh năm 1969.
Địa chỉ: ấp M, xã B, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.
1.7- Bà Diệp Thị H3, sinh năm 1977.
Địa chỉ: ấp G, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.
1.8- Bà Diệp Thị L2, sinh năm 1971. (có mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của ông H, bà L, bà H1, bà T2, bà T, bà K, bà H3: Bà Diệp Thị L2, sinh năm 1971, theo văn bản ủy quyền ngày 22-12-2014.
Địa chỉ: ấp G, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Khánh T, Văn phòng Luật sư Nguyễn Khánh T, Đoàn Luật sư tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)
Địa chỉ: đường P, Khóm H, Phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
2. Bị đơn:
2.1- Bà Huỳnh Thị Hoa S, sinh năm 1968. (có mặt)
2.2- Ông Ngô Văn S1, sinh năm 1964.
Người đại diện theo ủy quyền của ông S1: Bà Huỳnh Thị Hoa S, sinh năm 1968, theo văn bản ủy quyền ngày 30-10-2017.
Cùng địa chỉ: ấp G, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1- Bà NLQ1 (D), sinh năm 1940.
3.2- Ông NLQ2, sinh năm 1988.
3.3- Bà NLQ3, sinh năm 1991.
3.4- Bà NLQ4, sinh năm 1993.
Người đại diện theo ủy quyền của NLQ1, NLQ2, NLQ3, NLQ4: Bà Huỳnh Thị Hoa S, sinh năm 1968, theo văn bản ủy quyền ngày 30-10-2017.
Cùng địa chỉ: ấp G, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.
4. Người làm chứng:
4.1- Ông NLC1, sinh năm 1965. (có mặt)
4.2- Ông NLC2, sinh năm 1968. (có mặt)
Cùng địa chỉ: ấp G, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.
5. Người kháng cáo: Các nguyên đơn ông Diệp Văn H, bà Diệp Thị L, bà Diệp Thị H1, bà Diệp Thị T2, bà Diệp Thị T, bà Diệp Thị K, bà Diệp Thị H3 và bà Diệp Thị L2.
Nội dung của bản án đòi nhà cho ở nhờ
Theo án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ, Nội dung của bản án đòi nhà cho ở nhờ như sau:
Nguyên đơn ông Diệp Văn H, bà Diệp Thị L, bà Diệp Thị H1, bà Diệp Thị T2, bà Diệp Thị T, bà Diệp Thị K, bà Diệp Thị H3, bà Diệp Thị L2 khởi kiện trình bày:
Nguồn gốc đất tranh chấp là của ông Diệp Văn S3 và bà Sừ Thị E là cha, mẹ của ông Diệp Văn Đ cho ông Diệp Văn Đ trước năm 1975 với diện tích khoảng 1.000m2, cho không có làm giấy tờ, cho chỉ trong gia đình biết. Ông Diệp Văn S3 và bà Sừ Thị E có 03 người con là ông Diệp Văn Đ, ông Diệp Văn T3 (K) và bà NLQ1 (D). Sau năm 1975, lúc ông Diệp Văn S3 còn sống, ông đã chia đất ruộng cho ông Diệp Văn Đ 21 công, ông Diệp Văn T3 21 công, bà NLQ1 20 công. Ông Diệp Văn S3 chết năm 1988 và bà Sừ Thị E chết năm 1960, ông S3, bà E không để lại di chúc.
Sau khi được cho đất, ông Diệp Văn Đ sử dụng ổn định từ đó cho đến nay, ông Đ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất một phần đất được ông S3 cho là khoảng trên 500m2, phần đất đang tranh chấp thì chưa làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Năm 1992, vợ chồng bà Huỳnh Thị Hoa S và ông Ngô Văn S1 đến hỏi mượn phần đất đang tranh chấp để ở nhờ, ông Đ đồng ý cho vợ chồng bà S ở nhờ một phần đất để cất nhà ở, lúc đầu chỉ xây vách tường lên cao khoảng 03m và lợp tôn, vài năm sau thì ông S1 và bà S đã xây thêm vách nhà và sử dụng thêm phần đất để làm chuồng heo nâng tổng diện tích đất là 187,9m2 như hiện trạng hiện nay. Việc mượn đất ở nhờ chỉ được hai bên thỏa thuận bằng lời nói và thỏa thuận khi nào ông Đ cần lấy lại đất thì ông S1, bà S sẽ trả lại đất, sự việc có ông NLC2 và ông NLC1 cùng cư trú ấp G, thị trấn T biết rõ. Tính đến nay ông S1 và bà S đang quản lý, sử dụng đất của ông Diệp Văn Đ cho ở nhờ diện tích đất là 187,9m2, khi ông Đ còn sống có kiện yêu cầu ông S1 và bà S di dời nhà và công trình xây dựng trên đất trả lại nhưng ông S1 và bà S không Đ ý, sự việc chưa xong thì ông Đ chết vào ngày 10/6/2014 (khởi kiện hành chính, Ủy ban nhân dân huyện T đồng ý rút quyết định nên ông Đ cũng đã rút đơn khởi kiện hành chính, vụ việc đã được Tòa án đình chỉ giải quyết).
Nay các ông, bà Diệp Văn H, Diệp Thị L, Diệp Thị T, Diệp Thị H1, Diệp Thị T2, Diệp Thị H3, Diệp Thị K và Diệp Thị L2 là những người thừa kế của ông Diệp Văn Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết buộc ông Ngô Văn S1 và bà Huỳnh Thị Hoa S phải di dời nhà và các công trình xây dựng trên đất để trả lại cho các ông, bà diện tích đất 188,9m2 thuộc thửa số 101, tờ bản đồ số 27 đất tọa lại tại ấp G, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án.
Quyết định của tòa trong bản án đòi nhà cho ở nhờ
Quyết định của tòa trong bản án đòi nhà cho ở nhờ như sau:
Căn cứ Khoản 1 Điều 308, Khoản 1 Điều 148 và Khoản 6 Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
1/. Không chấp nhận kháng cáo của các nguyên đơn ông Diệp Văn H, bà Diệp Thị L, bà Diệp Thị H1, bà Diệp Thị T2, bà Diệp Thị T, bà Diệp Thị K, bà Diệp Thị H3 và bà Diệp Thị L2.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 19/2017/DS-ST ngày 22-8-2017 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Sóc Trăng như sau:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn ông Diệp Văn H, bà Diệp Thị L, bà Diệp Thị H1, bà Diệp Thị T2, bà Diệp Thị T, bà Diệp Thị K, bà Diệp Thị H3 và bà Diệp Thị L2 đối với yêu cầu khởi kiện buộc các bị đơn Huỳnh Thị Hoa S và Ngô Văn S1 phải di dời nhà và các công trình xây dựng trên diện tích đất 188,9m2 thuộc thửa số 101, tờ bản đồ số 27 tọa lạc tại ấp G, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng để trả lại diện tích đất cho các nguyên đơn là người thừa kế của ông Diệp Văn Đ.
Vị trí, hình thể và số đo tứ cận của phần đất này được thể hiện cụ thể trong Phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất lập ngày 01/7/2015 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện T đính kèm bản án.
2. Về chi phí tố tụng: Các nguyên đơn ông Diệp Văn H, bà Diệp Thị L, bà Diệp Thị H1, bà Diệp Thị T2, bà Diệp Thị T, bà Diệp Thị K, bà Diệp Thị H3 và bà Diệp Thị L2 phải chịu tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, chi phí giám định và định giá tài sản là 5.516.000 đồng, do các nguyên đơn đã nộp tạm ứng trước số tiền này, do đó các nguyên đơn đã thực hiện xong các chi phí trên.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Các nguyên đơn phải cùng chịu 200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án đã nộp 3.250.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2012/002079 ngày 17 tháng 12 năm 2014 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Sóc Trăng, như vậy các nguyên đơn được nhận lại số tiền chênh lệch là 3.050.000 đồng.
2/. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Diệp Văn H, bà Diệp Thị L, bà Diệp Thị H1, bà Diệp Thị T2, bà Diệp Thị T, bà Diệp Thị K, bà Diệp Thị H3 và bà Diệp Thị L2 mỗi người phải chịu 300.000 đồng tiền án phí phúc thẩm, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo các biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006429 (bà L2), số 0006430 (bà H3), số 0006431 (bà K), số 0006432 (bà T), số 0006433 (bà Thành), số 0006434 (bà H1), số 0006435 (bà L), số 0006436 (ông H) cùng ngày 5-9-2017 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện T phát hành. Như vậy các nguyên đơn đã nộp xong tiền phí phúc thẩm.
3/. Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Tải về bản án đòi nhà cho ở nhờ
Mời bạn xem thêm
- Hoãn thi hành án tử hình được thực hiện thế nào?
- Quy định chung về thủ tục công nhận và cho thi hành án tại Việt Nam
- Thi hành án phạt quản chế diễn ra theo trình tự nào chế theo pháp luật
Thông tin liên hệ
Trên đây là bài viết Luật sư X tư vấn về “Bản án đòi nhà cho ở nhờ”. Hy vọng bài viết có ích cho độc giả. Đội ngũ luật sư của Công ty Luật sư X luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp mọi vướng mắc liên quan đến tư vấn đặt cọc đất của bạn. Nếu có những vấn đề nào chưa rõ cần được tư vấn thêm quý độc giả hãy liên hệ ngay tới hotline 0833.102.102 để được các chuyên gia pháp lý của Luật sư X tư vấn trực tiếp.
- Facebook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Nếu đang có ý định muốn cho ở nhờ, cho mượn nhà đất của mình và muốn hạn chế rủi ro, tranh chấp sau nay, trước hết chủ nhà nên xác lập hợp đồng.
Nội dung của hợp đồng mượn nhà cần có những điều khoản sau:
– Quyền và nghĩa vụ của các bên;
– Thỏa thuận chi tiết kỹ lưỡng về nội dung chủ sở hữu được phép lấy lại nhà ở trong những trường hợp nào;
– Thời hạn cho mượn cho ở nhờ;
– Khi có tranh chấp phát sinh thì hai bên sẽ giải quyết thế nào.
Theo quy định tại Điều 255 Bộ luật Dân sự (BLDS) về các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu: Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo về tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng những biện pháp theo quy định của pháp luật.
Thời hiệu khởi kiện không được áp dụng cho tranh chấp về quyền sử dụng đất dựa theo khoản 3 Điều 155 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định. Có thể khởi kiện đòi lại đất cho ở nhờ theo quy định của Luật đất đai vào mọi thời điểm mà không phải lo lắng về việc mất quyền yêu cầu khởi kiện