Hậu quả pháp lý của li hôn

bởi NguyenDucThuan
hậu quả pháp lý của li hôn

Pháp luật về hôn nhân và gia đình của Việt Nam thực hiện và bảo hộ nguyên tắc tự do hôn nhân; trong đó có quyền tự do ly hôn của vợ chồng. Với quan điểm, Nhà nước bằng pháp luật không thể bắt buộc cá nhân phải kết hôn thì cũng không thể bằng pháp luật bắt buộc vợ chồng phải duy trì quan hệ hôn nhân khi giữa vợ chồng đã có những mâu thuẫn sâu sắc và không còn mong muốn chung sống với nhau. Ly hôn được coi là tất yếu, khách quan khi hôn nhân đã “chết”. Ly hôn không chỉ liên quan đến lợi ích của cá nhân vợ, chồng mà còn ẩn chứa, ảnh hưởng tới lợi ích của gia đình và xã hội. Vậy hậu quả pháp lý của li hôn là gì?

Tham khảo bài viết dưới đây của Luật sư X.

Cơ sở pháp lí

Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

Ly hôn là gì?

Khoản 14 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình quy định ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án; quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Việc li hôn phải dựa trên những căn cứ li hôn theo quy định của pháp luật.

Quan hệ nhân thân giữa vợ chồng

Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “

Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tòa án đã giải quyết ly hôn phải gửi bản án, quyết định ly hôn đã có hiệu lực pháp luật cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn để ghi vào sổ hộ tịch; hai bên ly hôn; cá nhân, cơ quan, tổ chức khác theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các luật khác có liên quan.

Về nguyên tắc, khi bản án, quyết định li hôn của tòa án có hiệu lực pháp luật, quan hệ vợ chồng chấm dứt. Người vợ chồng đã li hôn có quyền kết hôn với người khác. Các quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng phát sinh từ khi kết hôn sẽ đương nhiên chấm dứt. Cụ thể hơn, giữa hai bên sẽ không còn tồn tại nghĩa vụ phải thương yêu, chung thủy; tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; chấm dứt quyền đại diện cho nhau giữa vợ và chồng; các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của luật Hôn nhân và gia đình.

Chia tài sản của vợ chồng khi li hôn

Một trong những hậu quả pháp lý của li hôn là vấn đề chia tài sản. Việc chia tài sản của vợ chồng khi li hôn là một vấn đề phức tạp; thường có nhiều tranh chấp trong thực tiễn xét xử. Để đảm bảo chia công bằng và hợp lí; trường hợp vợ chồng không thể thỏa thuận được với nhau thì pháp luật quy định những nguyên tắc nhất định.

Trong trường hợp chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận

Khi ly hôn nếu có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề không được vợ chồng thỏa thuận; hoặc thỏa thuận không rõ ràng; hoặc bị vô hiệu thì áp dụng các quy định áp dụng theo luật định; những thỏa thuận có hiệu lực vẫn được tôn trọng và thực hiện.

Trong trường hợp chế độ tài sản vợ chồng theo luật định

Về nguyên tắc, tài sản của vợ chồng được chia đôi; nhưng có xét đến một số yếu tố được quy định tại khoản 2 điều 59 Luật hôn nhân và gia đình.

Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng

Đây là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi; sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia; hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ; nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng.

Công sức đóng góp của vợ, chồng

Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung” là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.

Bảo vệ lợi ích của mỗi bên

Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập” là việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập; và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự.

Các yếu tố khác

  • Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng” là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn.
  • Giá trị tài sản chung của vợ chồng; tài sản riêng của vợ, chồng; được xác định theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc.
  • Khi giải quyết chia tài sản khi ly hôn, Tòa án phải xem xét để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật; nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

Quan hệ giữa cha mẹ và con

Vợ chồng ly hôn vẫn có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Nếu con chung chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì vợ chồng phải thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con và quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Việc giao con cho một bên trực tiếp nuôi phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Về nguyên tắc con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi; trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; hoặc các bên có thỏa thuận khác.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con và có quyền được thăm nom con. Nhưng nếu lạm dụng quyền thăm nom con để cản trở; hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con; thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của họ. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Hậu quả pháp lý của li hôn là vấn đề quan trọng. Đây là cơ sở để tòa án giải quyết các vấn đề trong quan hệ hôn nhân một cách công bằng; hợp lí.

Liên hệ luật sư X

Trên đây là tư vẫn của chúng tôi về vấn đề “Hậu quả pháp lý của li hôn”. Khi Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ liên quan đến vấn đề trên cũng như các vấn đề pháp lý khác. Quý khách hàng có thể gọi ngay cho chúng tôi qua hotline: 0833102102

  1. FB: www.facebook.com/luatsux
  2. Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
  3. Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux

Câu hỏi thường gặp

Người chồng bị hạn chế quyền li hôn khi nào?

Vấn đề hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng được quy định tại Khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Theo đó người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp: Vợ đang mang thai; sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Quyền lưu cư của vợ chồng khi li hôn

Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt; trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Thuận tình li hôn

Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn; nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản; việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con; thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.

5/5 - (1 bình chọn)

Liên hệ để được hỗ trợ tốt nhất

Có thể bạn quan tâm