Con nuôi và thành viên khác trong gia đình nuôi: Chắc hẳn đây là vấn đề mà nhiều mọi người quan tâm trên thực tiễn hiện nay khi mà mối quan hệ pháp lí giữa cha mẹ nuôi và người con nuôi được hình thành. Người con nuôi này khi được hợp thức hoá được nhà nước công nhận thì phát sinh các quyền và nghĩa vụ cha mẹ con như cha mẹ đẻ trừ một số trường hợp thoả thuận khác. Nhưng vấn đề ta cần bàn luận ở đây là người con này sẽ có tư cách như thế nào đối với bên gia đình nuôi của chúng. Có chịu sự ràng buộc hay trách nhiệm pháp lí nào không thì cùng tìm hiểu với Luật sư X nhé.
Căn cứ pháp lý
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Con nuôi là gì?
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi 2010 thì con nuôi được định nghĩa như sau:
Con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký.
Khi nào thì người con chính thức trở thành con nuôi hợp pháp?
Điều kiện về việc nuôi con nuôi
Theo Điều 8 của Luật Nuôi con nuôi 2010 thì:
+ Trẻ em dưới 16 tuổi
+ Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
- Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
+ Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng (bao gồm cả trường hợp chung sống với nhau như vợ chồng trước 3/1/1987)
+ Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi;(không quy định về hoàn cảnh của gia đình người được nhận làm con nuôi)
Điều kiện về người nhận nuôi con nuôi
– Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: (Theo Điều 14 Luật Nuôi con nuôi 2010)
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; trừ trường hợp cha dượng mẹ kế cô cậu dì chú bác không phân biệt độ tuổi nhận nuôi;
- Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;
- Có tư cách đạo đức tốt.
– Những người sau đây không được nhận con nuôi:
- Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
- Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh;
- Đang chấp hành hình phạt tù;
- Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
Bàn về mối quan hệ giữa con nuôi hợp pháp và các thành viên khác trong gia đình nhận nuôi
Theo Khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi có quy định:
Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác gia đình nhận nuôi có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau; theo quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình; pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Có lẽ quy định này của pháp luật dường như rất chung chung khiến cho việc áp dụng vào thực tiễn cũng rất khó khăn. Vậy ta phải hiểu thế nào cho đúng về quyền và nghĩa vụ con nuôi và thành viên khác trong gia đình nuôi có liên quan ở đây theo Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Mối quan hệ giữa con nuôi với cha mẹ đẻ của cha mẹ nuôi
Đối với việc con nuôi và thành viên khác trong gia đình nuôi: Cụ thể là ông bà nuôi với cháu nuôi sẽ có mối quan hệ theo Điều 104 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Theo đó, Ông bà nội, ông bà ngoại có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu; trường hợp cháu chưa thành niên không có người nuôi dưỡng thì ông bà có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu; cháu có nghãi vụ kính trọng chăm sóc lại ông bà. Giữa ông bà và cháu có quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng cho nahu theo quy định tại Điều 107, 113 Luật Hôn nhân và gia đình.
Theo quan điểm của chúng tôi thì mặc dù chưa có luật quy định về thừa kế thế vị của người con nuôi; (Tại điểm b khoản 1 Điều 651 và Điều 652 Bộ luật dân sự 2015); nhưng vẫn có thể được hưởng vì khi quyền và nghĩa vụ đã có thể như nhau theo luật hôn nhân thì vẫn có thể thừa kế thế vị của nhau.
Mối quan hệ giữa con nuôi với con đẻ của cha mẹ nuôi
Vấn đề này cũng được thể hiện trong Luật Hôn nhân; Họ có các quyền, nghĩa vụ yêu thương chăm sóc lẫn nhau; có quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng cấp dưỡng cho nhau khi cha mẹ không có điều kiện này.
Mối quan hệ giữa con nuôi với anh, chị em ruột của cha mẹ nuôi
Họ có quyền, nghĩa vụ yêu thương chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau; cấp dưỡng, nuôi dưỡng nhau theo quy định tại Điều 106, 114 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Tuy nhiệm, dưới góc độ nghiên cứu của chúng tôi thì nội dung quy định tại khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi cần phải làm rõ hơn khi xảy ra tranh chấp. Việc không quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của con nuôi và thành viên khác trong gia đình nuôi sẽ làm giảm sút ý nghĩa của việc nuôi con nuôi; chẳng hạn có quan điểm lại nói rằng chỉ phát sinh quyền và nghĩa vụ khi họ sống chung theo Điều 103 Luật Hôn nhân.
Liên hệ Luật sư X:
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề: “Mối quan hệ giữa người con nuôi hợp pháp và các thành viên khác trong gia đình nhận nuôi”. Để sử dụng dịch vụ của chúng tôi mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.
Liên hệ hotline: 0833.102.102
- FaceBook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp:
Như vậy nếu giữa con đẻ và con nuôi đáp ứng đủ điều kiện về độ tuổi, tính tự nguyện và không thuộc các trường hợp cấm kết hôn thì việc kết hôn đó được pháp luật công nhận; cùng với thực hiện đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.
Khi đã cho con nuôi thì quyền của cha mẹ đẻ chấm dứt theo khoản 4 Điều 25 Luật Hôn nhân; nếu không có thoả thuận khác nhưng không chấm dứt quyền thừa kế. Nếu thoả thuận thì quyền của cha mẹ đẻ có thể bị hạn chế một phần; toàn bộ hoặc không chấm dứt quyền nào.
Theo quan điểm của chúng tôi thì có thể nhận được nhưng với tư cách là người độc thân. Tại vì trên thực tế hôn nhân đồng giới chưa được pháp luật Việt Nam thừa nhận; nên là hậu qủa cũng bị kéo theo không thể nào nhận nuôi con nuôi của cả hai người đó được. Mà mỗi người phải thoả thuận với nhau ai là người nuôi đứa trẻ; đứng trên mặt pháp lí chỉ có một người đó thôi.