Pháp chế và nhà nước pháp quyền

bởi Thanh Loan
Pháp chế và nhà nước pháp quyền

Chắc hẳn vẫn còn nhiều người lẫn lộn giữa pháp chế và pháp quyền và không nắm rõ được bản chất giữa hai điều này. Pháp chế và pháp quyền có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và bao hàm nhau tuy nhiên sẽ có nhưng tính chất riêng. Cần nhận thức các khái niệm pháp chế, pháp quyền trong sự vận động của đời sống xã hội, nội hàm của chúng có thể có những điều chỉnh, thay đổi. Bạn đọc có thể tìm hiểu vấn đề này trong bài viết “Pháp chế và nhà nước pháp quyền” của LSX.

Pháp chế và nhà nước pháp quyền

Vấn đề pháp chế 

Về lý luận, sự hiện diện của khái niệm pháp luật, phạm trù pháp luật trong đời sống chính trị, pháp luật của xã hội được thể hiện dưới dạng hệ thống các khái niệm, mối quan hệ giữa các khái niệm cụ thể phản ánh những tính chất, mối quan hệ chung, cơ bản của pháp luật. Điều này dẫn đến các tính năng chính sau:

Thứ nhất, về mặt nội dung, pháp luật được hiểu chung là đề cập đến việc tuân thủ pháp luật một cách tổng thể đối với từng lĩnh vực, hoạt động. Trong trường hợp pháp luật, không phải nó chỉ ra nội dung, hình thức của luật và văn bản quy phạm pháp luật phải như thế nào sao? Trên thực tế, có sự hiểu lầm hoặc mơ hồ, cho rằng luật không liên quan gì đến việc ban hành luật. Do đó, khái niệm này có thể được đưa ra: Pháp luật là chế độ hoạt động pháp luật của cơ quan nhà nước bao gồm việc ban hành, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và thực hiện pháp luật một cách chặt chẽ, chính xác, thống nhất, thường xuyên và bình đẳng. của mọi cơ quan nhà nước, người giữ chức vụ, công dân và mọi tổ chức của họ.

Hạn chế lớn nhất của các khái niệm pháp lý hiện hành là chúng không chỉ ra tính hiệu quả của việc thực thi pháp luật. Mặc dù có những dấu hiệu nhất định trong khái niệm tính hợp pháp, nhưng ngoài yêu cầu phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, còn có những yêu cầu khác gần đúng hoặc thể hiện một phần hiệu quả của việc tuân thủ pháp luật như đã nêu ở trên.

Thứ hai, pháp quyền gắn liền với dân chủ. Khái niệm dân chủ như vậy là một cách hiểu đơn giản, phi học thuật nhưng lại có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất sâu sắc. Trong mối quan hệ trực tiếp với việc sử dụng quyền lực nhà nước, dân chủ được thể hiện dưới hai hình thức: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Ngoài những hình thức vừa nêu, còn có những hình thức dân chủ rất quan trọng khác gắn liền với quyền công dân như: quyền thông tin, quyền tự do báo chí, quyền biểu tình.

Thứ ba, xét về nội dung, pháp chế bao gồm các yêu cầu cơ bản sau:

  • Sự thống nhất của pháp chế. Điều này có nghĩa là pháp luật phải được thực thi thống nhất ở mọi cấp độ, mọi ngành nghề, mọi nơi và bởi mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tính thống nhất của luật nhằm đảm bảo rằng quyền đồng quyết giữa các bang và chính phủ quốc gia được thực hiện thống nhất.
  • Luật ràng buộc áp dụng cho tất cả các cá nhân và tổ chức vì luật có tính ràng buộc và thi hành như nhau đối với mọi đối tượng mà không có ngoại lệ hoặc đặc quyền.
  • Tính tối cao của Hiến pháp. Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất và là điều kiện tiên quyết cho mọi quyết định, hành động của mọi chủ thể pháp luật.
  • Pháp luật gắn liền với thực tế cuộc sống. Việc đảm bảo tổ chức thống nhất các cơ quan thực thi pháp luật phải đi đôi với đời sống xã hội hết sức đa dạng và phong phú. Vì vậy, để bảo đảm quy định pháp luật trong các cơ quan thực thi pháp luật, các văn bản pháp luật phải được triển khai phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng yêu cầu vừa thống nhất, vừa đạt hiệu quả tối đa.
  • Bảo đảm và bảo vệ quyền công dân. Cũng như với dân chủ, pháp luật không thể tránh khỏi việc đặt ra các yêu cầu nhằm đảm bảo và bảo vệ quyền công dân, đặc biệt khi dân chủ và nhân quyền là xu hướng chủ đạo trong quá trình phát triển toàn cầu. Pháp luật còn bao gồm các biện pháp bảo đảm tính pháp lý và các mối quan hệ với nhà nước, các đảng phái chính trị, các tổ chức xã hội… và có thể coi là một nhóm các lý luận lập pháp.
Pháp chế và nhà nước pháp quyền

Nhà nước pháp quyền 

Mỗi đặc điểm trên của nhà nước hiến pháp Việt Nam phản ánh một khía cạnh cụ thể của nhà nước có nội dung độc lập. Tuy nhiên, giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ, tạo thành một thể thống nhất trong nhà nước. Việc loại bỏ một đặc điểm có nghĩa là phá vỡ mối quan hệ với tổng thể và có thể dẫn đến nhận ra những thiếu sót, sai lệch, bất cập trong định hướng xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền.

Đó là cơ chế hoạt động của pháp luật và việc thực thi pháp luật chỉ là một phần. Tuy nhiên, có ý kiến ​​cho rằng cần phân biệt giữa “cơ chế hiệu lực pháp luật” và “cơ chế pháp lý”. Về tác động tổng thể của pháp luật đến đời sống xã hội, cơ chế phối hợp pháp luật và cơ chế tác động xã hội của pháp luật được xem xét. Việc tham gia vào các cơ chế này là không cần thiết để đạt được các mục tiêu nhất định, chẳng hạn như đảm bảo quyền tự do quốc gia, quản lý nhà nước, v.v.

  • Cơ chế điều chỉnh pháp luật: Là tập hợp các yếu tố pháp lý bảo đảm hiệu lực của pháp luật đối với các mối quan hệ của đời sống xã hội. Đó là một hình thức và quá trình thích ứng xã hội có hệ thống và có mục đích. Hiệu quả này đạt được thông qua một loạt các công cụ, quy trình và thủ tục tố tụng. Cơ chế phối hợp pháp luật bao gồm nhiều yếu tố như quy phạm pháp luật, văn bản riêng lẻ, mối quan hệ pháp lý, chủ thể, ý thức pháp luật, tính pháp lý và nghĩa vụ pháp lý.
  • Cơ chế xã hội của pháp luật: được hiểu là sự tổng hợp các yếu tố xã hội, phương thức hoạt động của pháp luật và xã hội nhằm biến các quy định pháp luật thành hành vi pháp luật của con người. Nếu “cơ chế điều phối của pháp luật” mang tính chất pháp lý hoặc mang tính pháp lý thuần túy thì “cơ chế xã hội vận hành pháp luật” đề cập đến hiệu lực của pháp luật, tức là các yếu tố pháp lý, xã hội biểu thị việc thực hiện pháp luật. pháp luật trong thực tiễn đời sống xã hội hỗn hợp. Trong trường hợp quản lý hành chính nhà nước, cơ chế này được xem xét cụ thể hơn, chẳng hạn như liên quan đến việc thiết kế hệ thống quản lý pháp lý, các khía cạnh pháp lý xã hội của các quy trình và thủ tục quản lý. Tâm lý học, hệ thống thông tin, vai trò của các đảng phái chính trị, tổ chức xã hội, các vấn đề tâm lý xã hội…

Mối quan hệ giữa pháp chế và nhà nước pháp quyền 

Nhà nước pháp quyền thường được gọi là nhà nước pháp quyền hoặc quyền lực tối cao của pháp luật. Tuy nhiên, nhà nước pháp quyền cũng bao gồm các vấn đề chính trị xã hội như dân chủ, nhân quyền và thực thi quyền lực nhà nước. Luật này được xem xét trong mối quan hệ với những đặc điểm tương tự nhưng cũng tính đến tất cả các yếu tố chính trị – xã hội. Pháp quyền đề cập đến luật pháp và việc thực hiện chúng khi chúng thể hiện trong hành vi của con người và các cơ chế mà luật pháp ảnh hưởng đến đời sống xã hội.

Từ đó chúng ta có thể thấy rằng pháp luật chỉ là một bộ phận, một yếu tố, một nguyên tắc, một điều kiện tiên quyết của nhà nước hợp hiến và chỉ là những khía cạnh liên quan đến việc tuân theo pháp luật trong hoạt động lập pháp và hành chính. Hành động thực thi pháp luật. Nó liên quan trực tiếp và là một bộ phận không thể thiếu của nhà nước pháp quyền, là một đặc điểm của nhà nước pháp quyền. Pháp luật không chỉ đề cập đến yêu cầu tôn trọng pháp luật trong việc xây dựng và thực thi pháp luật mà còn đề cập đến việc xây dựng chính sách, tổ chức pháp luật và việc sử dụng các phương pháp, hình thức thực thi pháp luật.

Khoá học pháp chế doanh nghiệp tại ICA

Học viện đào tạo pháp chế ICA hiểu rõ những trăn trở của bạn trong quá trình tìm việc làm và nắm rõ nhu cầu tuyển dụng của thị trường. Học viện đào tạo pháp chế ICA thiết kế khoá học pháp chế doaanh nghiệp với mục đích trang bị cho bạn những kiến ​​thức và kỹ năng cần thiết để bạn tự tin dự tuyện vào vị trí pháp chế.

Để hệ thống hóa, chắt lọc những kiến ​​thức cần thiết cho công việc thực tế, các giảng viên có nhiều năm kinh nghiệm và chuyên môn cao về lĩnh vực luật sở hữu, kinh tế bất động sản sẽ phụ trách.

Ngoài ra, bằng cách tận dụng chương trình đào tạo thực tế do các giảng viên có chuyên môn cao cung cấp, bạn có thể rút ngắn thời gian tích lũy kinh nghiệm và tự tin xin việc.

Bằng việc tham gia khóa học và đăng ký làm thành viên của Học viện đào tạo pháp chế ICA, bạn sẽ nhận được bước hỗ trợ đầu tiên cho quá trình tìm việc và tái tuyển dụng. Nhờ nỗ lực của toàn thể đội ngũ tại Học viện Đào tạo pháp chế ICA, chúng tôi cam kết cung cấp các khóa học chất lượng cao xứng đáng với giá trị đầu tư của bạn.

Thông tin đăng ký khoá học pháp chế tại ICA

Để nhanh tay đăng ký khóa học pháp chế doanh nghiệp, bạn hãy liên hệ ngay tới ICA:

  • Liên hệ qua SĐT0564.646.646
  • Liên hệ qua Mailphapche.edu.vn@gmail.com

Thông tin liên hệ

Trên đây là nội dung bài viết liên quan đến vấn đề “Pháp chế và nhà nước pháp quyền” Hy vọng bài viết có ích cho độc giả, Luật sư X với đội ngũ luật sư, luật gia và chuyên viên pháp lý dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ cung cấp mọi dịch vụ pháp lý trên toàn quốc . Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe mọi thắc mắc của quý khách hàng. Thông tin chi tiết quý khách hàng vui lòng liên hệ qua số hotline: 0833102102

Mời bạn xem thêm

Câu hỏi thường gặp:

Người làm công tác pháp chế doanh nghiệp nhà nước gồm những ai?

Tại Điều 11 Nghị định 55/2011/NĐ-CP quy định về người làm công tác pháp chế bao gồm:
Công chức pháp chế được tuyển dụng, bổ nhiệm vào tổ chức pháp chế ở Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Cán bộ pháp chế được điều động, tuyển dụng vào tổ chức pháp chế ở các đơn vị quân đội nhân dân, công an nhân dân.
Viên chức pháp chế được tuyển dụng, bổ nhiệm vào tổ chức pháp chế ở đơn vị sự nghiệp công lập.
Nhân viên pháp chế được tuyển dụng theo chế độ hợp đồng lao động vào tổ chức pháp chế ở doanh nghiệp nhà nước.

Chế độ của người làm công tác pháp chế như thế nào?

Cũng được quy định tại Điều 12 Nghị định 55/2011/NĐ-CP khoản 2 và khoản 3 thể hiện chế độ của người làm công tác pháp chế như sau:
Công chức, cán bộ và viên chức pháp chế quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều 11 Nghị định 55/2011/NĐ-CP được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề.
Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ quy định chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với người làm công tác pháp chế.
Doanh nghiệp nhà nước có thể vận dụng tiêu chuẩn, chế độ của người làm công tác pháp chế quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 12 Nghị định 55/2011/NĐ-CP để lựa chọn, bố trí, sử dụng và quyết định chế độ đối với nhân viên pháp chế.

5/5 - (1 bình chọn)

Liên hệ để được hỗ trợ tốt nhất

Có thể bạn quan tâm