Trong cuộc sống hàng ngày tham nhũng là căn bệnh nhức nhối trong bộ máy Nhà nước gây ra nhiều hệ quá tiêu cực. Mọi công dân trong xã hội đều phải có trách nhiệm tham gia tích cực trong việc ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới xóa bỏ các hành vi tham nhũng. Đấu tranh phòng chống tham nhũng không chỉ là trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước mà còn là quyền và nghĩa vụ của toàn dân. Vậy trách nhiệm của công dân trong phòng chống tham nhũng là gì?
Tại bài viết dưới đây, Luật sư X xin giới thiệu đến bạn đọc bài viết “ Trách nhiệm của công dân trong phòng chống tham nhũng ”. Mong rằng bài viết sẻ mang đến độc giả nhiều điều bổ ích .
Căn cứ pháp lý
Vai trò của nhân dân trong phòng chống tham nhũng
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của Nhân dân về trách nhiệm trong đấu tranh phòng chống tham nhũng.
Để góp phần quan trọng nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng cần phải tích cực hơn nữa trong thực hiện quyền tố cáo và các quyền dân chủ ở cơ sở của Nhân dân. Trước hết, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của Nhân dân, của công luận trong công tác kiểm tra, giám sát, đấu tranh phát hiện, ngăn chặn những hiện tượng tham nhũng, quan liêu. Việc bảo đảm quyền làm chủ thật sự của Nhân dân sẽ đẩy lùi được tệ quan liêu, tham nhũng. Điều quan trọng bậc nhất là phải làm cho người dân hiểu rõ mục đích của việc thực hiện các quyền công dân, quyền dân chủ ở cơ sở là phát huy quyền làm chủ trực tiếp của chính mình và của toàn xã hội.
Hiện nay, trong các tầng lớp nhân dân không phải ai cũng hiểu đúng về các quy định của pháp luật về khiếu nại tố cáo, quyền công dân, quyền dân chủ, về thực hiện các quyền làm chủ của mình. Bên cạnh đó, ý thức và nhận thức về quyền công dân, quyền làm chủ của người dân nhiều nơi còn hạn chế. Vì thế, bằng những quy định cụ thể làm cho người dân có ý thức, có khả năng, có trách nhiệm thực hiện các quyền công dân, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế và pháp luật về quyền công dân, quyền dân chủ để tạo điều kiện cho Nhân dân đấu tranh phòng chống tham nhũng có hiệu quả.
Những ý kiến của Nhân dân là những đóng góp, phát hiện từ thực tế sinh động của cuộc sống để xây dựng, thực thi đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Bởi vậy, Nhà nước cần cụ thể hóa các quyền công dân, quyền dân chủ bằng những quy định rất cụ thể những điều dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng để Nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình với tư cách là chủ thể của xã hội. Bảo đảm cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin đến người dân.
Do đó, khi soạn thảo và ban hành các văn bản pháp luật, các chủ trương, chính sách, nhất là khi thực hiện các chương trình, dự án… phải tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong Nhân dân, tiếp thu ý kiến đóng góp của Nhân dân, làm cho các văn bản, các chính sách, chủ trương, dự án được công khai, minh bạch. Tạo mọi điều kiện cho người dân có quyền dân chủ bàn bạc, quyết định những công việc thiết thực ở cơ sở, như: quyết định và theo dõi các khoản thu, chi do Nhân dân đóng góp; giám sát các công trình xây dựng, phương án đền bù, giải phóng mặt bằng, các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước…
Cần tiếp tục hoàn thiện và bổ sung cơ chế giám sát của người dân, khắc phục những lỗ hổng trong các quy định của pháp luật. Đặc biệt, những quy định về tiền vốn Nhà nước, đóng góp của Nhân dân lại càng phải được giám sát chặt chẽ. Từ đó mới thực sự khuyến khích được tinh thần trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo của Nhân dân trong lao động và là cơ sở để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, quan liêu.
Cần có thêm nhiều hình thức tiếp thu rộng rãi hơn sự phản ánh, phát hiện của Nhân dân về những sai phạm của cán bộ, đảng viên, tổ chức để kịp thời đấu tranh PCTN như: thiết lập đường dây nóng, hộp thư kín, thực hiện tiếp dân, tăng cường đối thoại với dân… Cần chỉ ra những việc cán bộ, đảng viên không được làm và công khai những điều này cho Nhân dân biết để Nhân dân giám sát, góp ý và thực hiện tốt việc lấy phiếu tín nhiệm của dân.
Sửa đổi những quy định trong Quy chế Dân chủ ở cơ sở, và sớm luật hóa Quy chế này, bổ sung những quy định cần thiết, từ đó tích cực đưa việc thực hiện các quyền công dân, quyền dân chủ ở cơ sở vào cuộc sống. Kịp thời bổ sung những chế tài nghiêm khắc đối với những người có hành vi cản trở việc thực hiện quyền tố cáo và các quyền dân chủ của công dân.
Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo, công tác kiểm tra của cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp đối với việc bảo đảm thực hiện các quyền tố cáo, quyền dân chủ của Nhân dân.
Để thực hiện có hiệu quả quyền tố cáo, quyền dân chủ của Nhân dân, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, nhất thiết phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp.
Sự lãnh đạo của Đảng hướng vào mục tiêu phải đạt được hiệu quả trong cuộc đấu tranh PCTN. Ở những nơi có biểu hiện vi phạm dân chủ nghiêm trọng, tệ quan liêu, tham nhũng chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp phải thật sự kiên quyết; có cơ chế lãnh đạo phù hợp. chế tài phù hợp, chặt chẽ, nghiêm ngặt. Tăng cường công tác kiểm tra của cấp ủy, của tổ chức Đảng đối với việc bảo đảm điều kiện để Nhân dân thực hiện các quyền công dân, quyền dân chủ của mình, góp phần đấu tranh PCTN có hiệu quả. Coi trọng công tác sơ kết, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm kịp thời các nội dung, các mục tiêu thực hiện quyền công dân, quyền dân chủ trong đấu tranh PCTN của Nhân dân.
Trách nhiệm của công dân trong phòng, chống tham nhũng
Theo Điều 5 Luật phòng, chống tham nhũng quy định quyền và nghĩa vụ của công dân trong phòng, chống tham nhũng như sau:
- Công dân có quyền phát hiện, phản ánh, tố cáo, tố giác, báo tin về hành vi tham nhũng và được bảo vệ, khen thưởng theo quy định của pháp luật; có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng và giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
- Công dân có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phòng, chống tham nhũng.
Như vậy thông qua quy định trên ta có thể thấy rằng pháp luật về phòng chống tham nhũng quy định rõ về trách nhiệm của công dân trong việc tham gia phòng, chống tham nhũng, tố cáo hành vi tham nhũng, tham gia phòng, chống tham nhũng. Công dân có thể tham gia vào công tác phòng, chống tham nhũng bằng việc trực tiếp thực hiện quyền tố cáo của mình hoặc thực hiện quyền giám sát của mình thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân.
Theo đó, công dân phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về phòng, chống tham nhũng; lên án, đấu tranh với những người có hành vi tham nhũng. Phản ánh với Ban thanh tra nhân dân, tổ chức mà mình là thành viên về hành vi tham nhũng, vụ việc tham nhũng để Ban thanh tra nhân dân, tổ chức đó kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật. Cộng tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc xác minh vụ việc tham nhũng khi được yêu cầu.
Khi tố cáo hành vi tham nhũng với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, công dân phải nêu rõ họ, tên, địa chỉ, nội dung tố cáo và cung cấp các thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo mà mình có được cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Người tố cáo được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe dọa, trả thù, trù dập do việc tố cáo hành vi tham nhũng.
Công dân được quyền tham gia phòng, chống tham nhũng thông qua Ban thanh tra nhân dân, tổ chức mà mình là thành viên. Nhân dân ở xã, phường, thị trấn, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tham nhũng, vụ việc tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình có quyền phản ánh với Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn hoặc ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước nơi mình cư trú hoặc làm việc. Ban thanh tra nhân dân là một tổ chức để thực hiện quyền giám sát của nhân dân ở địa phương, cơ sở.
Việc phản ánh của nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động về hành vi có dấu hiệu tham nhũng, vụ việc tham nhũng phải khách quan, trung thực. Ban thanh tra nhân dân có trách nhiệm tiếp nhận ý kiến phản ánh của nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động về hành vi có dấu hiệu tham nhũng, xem xét và kiến nghị Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật và giám sát việc giải quyết đó.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tổ chức mà công dân là thành viên có trách nhiệm tiếp nhận ý kiến phản ánh của công dân về hành vi có dấu hiệu tham nhũng, vụ việc tham nhũng xem xét và kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật. Khi nhận được thông báo kết quả giải quyết vụ việc tham nhũng của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thì Ban thanh tra nhân dân, tổ chức mà công dân là thành viên có trách nhiệm thông báo kết quả giải quyết cho công dân đã có ý kiến phản ánh biết.
Những yếu tố kiềm chế địa vị của công dân trong phòng, chống tham nhũng
Năng lực của chính quyền
Trong mối tương quan giữa chính quyền và công dân trong hoạt động phòng, chống tham nhũng phòng chống tham nhũng thì cách tiếp cận, khả năng và sự sẵn sàng của chính quyền đóng vai trò quan trọng trong việc phân bổ quyền lực hoặc thực hiện các cơ chế chống tham nhũng có sự tham gia của công dân. Phương pháp tiếp cận chống tham nhũng lấy công dân làm trung tâm có vẻ khả thi hơn trong môi trường ít tham nhũng hơn. Ngược lại, ở những quốc gia được coi là có mức độ tham nhũng cao, thì vấn đề địa vị của công dân trong phòng chống tham nhũng ít được quan tâm vì chính quyền không thể chấp nhận được các sáng kiến nhằm giảm bớt quyền lực đó.
Ví dụ: về lập ngân sách, việc này cần được phân cấp tối đa theo hướng trao quyền cho chính quyền địa phương. Quyền hạn này cho phép công dân kiểm soát tài chính công và ra quyết định về các vấn đề như giáo dục, y tế và cơ sở hạ tầng, giảm độc quyền quyền lực của các quan chức nhà nước ở trung ương và định hình lại cơ cấu trách nhiệm giải trình. Các cơ chế chống tham nhũng lấy công dân làm trung tâm sẽ thiếu hiệu quả nếu sự trao quyền giám sát, đánh giá của công dân bị hạn chế.
Năng lực công dân
Năng lực công dân là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả và sức mạnh của công dân trong hoạt động phòng chống tham nhũng. Chẳng hạn, khi công dân tham gia vào nhiều nhiệm vụ khác nhau như các hoạt động lập kế hoạch và báo cáo phức tạp có khả năng vượt quá khả năng của công dân. Một bộ phận công dân có khả năng tìm hiểu, tiếp cận thông tin chính xác và biết được đâu là điều tốt nhất cho mình; trong khi đó, sẽ luôn có những nhóm công dân thiếu tự tin và khả năng để tham gia đánh giá và thực hiện các hoạt động giám sát hành vi của quan chức.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến năng lực công dân trong hoạt động phòng chống tham nhũng, ví dụ như nền tảng giáo dục của mỗi cá nhân. Ngoài ra, năng lực công dân cũng bị hạn chế bởi tính chất đơn lẻ của các cá nhân trong công cuộc phòng chống tham nhũng. Trong khi, công chức là người được nắm giữ thông tin, được trao quyền bởi cộng đồng thì sự phản ứng của một cá thể hay một nhóm nhỏ rất khó làm thay đổi sự bất cân xứng quyền lực giữa người ủy nhiệm và người nhận uỷ nhiệm. Trong một số trường hợp, những cá thể chiến đấu đơn lẻ sẽ có thể bị trả đũa bằng nhiều cách từ trực tiếp tới gián tiếp. Chính điều này thường dẫn tới tâm lý né tránh, thờ ơ trước quyền giám sát, kiểm tra của mình đối với các công chức.
Ảnh hưởng của môi trường văn hóa – chính trị – pháp lý
Nhìn từ lý thuyết về hành động tập thể, tham nhũng chịu sự ảnh hưởng rất nhiều từ cộng đồng xã hội. Một tập thể xã hội liêm chính sẽ làm giảm khả năng tham nhũng của các công chức. Tuy nhiên, nếu một tập thể, cộng đồng có văn hóa hay truyền thống coi tham nhũng là một điều bình thường thì khả năng tham nhũng của các công chức sẽ cao hơn. Ở những quốc gia có nền văn hóa trọng quan hệ, đề cao sự gắn kết gia đình, bạn bè thì trên cơ sở mối quan hệ cá nhân và lòng tin dành cho nhau, người ta có thể ra quyết định giải quyết linh hoạt các tình huống bất thường trong cuộc sống, kinh doanh hay công sở, thậm chí có thể dàn xếp nhiều vụ việc hiệu quả hơn so với việc áp dụng pháp luật. Mặc dù cách xử lý này chưa chắc đã dẫn đến tham nhũng, nhưng nó khiến ranh giới giữa sự giúp đỡ hợp pháp và tham nhũng trở nên mờ nhạt, nhất là đối với các quốc gia mà người dân thiếu tin tưởng vào hệ thống pháp luật. Mỗi môi trường văn hóa như vậy sẽ tạo ra những cơ chế chính trị, pháp lý chứa đựng quan điểm của cộng đồng về cách tiếp cận cũng như giải pháp ứng phó với tham nhũng. Khi tham nhũng khởi nguồn từ lòng tham hay từ tính toán lợi ích vị kỷ của mỗi cá nhân thì việc mỗi cá nhân có thực hiện hành vi tham nhũng hay không, và mức độ phổ biến của tham nhũng trong một cộng đồng như thế nào, còn phụ thuộc vào môi trường xã hội, nơi mà có hay không kỳ vọng và quyết tâm chung của cộng đồng về một xã hội liêm chính, nói không với tham nhũng. Một nghiên cứu về tình trạng tham nhũng ở Kenya và Uganda đã chỉ ra rằng, chi phí cho hành vi tham nhũng ảnh hưởng tới mức độ của tình trạng tham nhũng, trong khi chi phí cho hành vi tham nhũng phụ thuộc vào tỷ lệ người dân trong xã hội chấp nhận tham nhũng. Nếu tham nhũng là một hành vi được phần lớn mọi người trong xã hội chấp nhận thì các cá nhân sẽ lựa chọn thực hiện các hành vi tham nhũng, dù biết nó là sai trái, bởi vì chi phí cho việc thực hiện hành động này sẽ được giảm thiểu so với việc làm đúng quy định, ít nhất là ở cấp độ cá nhân.
Mời bạn xem thêm:
- Đơn kháng cáo có được điểm chỉ không theo quy định 2022?
- Quy định biên chế công chức nhà nước theo pháp luật hiện hành
- Tội mua bán tài khoản ngân hàng bị phạt thế nào theo quy định?
Thông tin liên hệ
Trên đây là bài viết Luật sư X tư vấn về “Trách nhiệm của công dân trong phòng chống tham nhũng“. Hy vọng bài viết có ích cho độc giả.
Đội ngũ luật sư của Công ty Luật sư X luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp mọi vướng mắc liên quan đến tư vấn pháp lý, thủ tục giấy tờ liên quan đến thủ tục đăng ký logo, giải thể doanh nghiệp, đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam, tra mã số thuế cá nhân, giấy phép vệ sinh an toàn thực phẩm… của bạn. Nếu có những vấn đề nào chưa rõ cần được tư vấn thêm quý độc giả hãy liên hệ ngay tới hotline: 0833.102.102. để được các chuyên gia pháp lý của Luật sư X tư vấn trực tiếp. Hoặc bạn có thể tham khảo thêm các kênh sau:
- FB: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Quyền và nghĩa vụ của người cung cấp thông tin phát hiện lãng phí được quy định tại Điều 9 Nghị định số 84/2014/NĐ-CP như sau:
1. Quyền của người cung cấp thông tin phát hiện lãng phí:
– Gửi văn bản hoặc trực tiếp cung cấp thông tin liên quan đến lãng phí tới cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
– Được giữ bí mật họ tên, địa chỉ và các thông tin cá nhân khác của mình;
– Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông báo về việc xử lý thông tin phát hiện lãng phí do mình cung cấp;
– Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe dọa, trả thù, trù dập;
– Được khen thưởng theo quy định.
2. Nghĩa vụ của người cung cấp thông tin phát hiện lãng phí:
– Cung cấp thông tin trung thực, chính xác;
– Hợp tác, giúp đỡ cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc làm rõ các hành vi lãng phí đã phát hiện;
– Chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin cung cấp;
– Trường hợp cố ý cung cấp thông tin sai sự thật, cung cấp thông tin thất thiệt làm ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan, tổ chức, uy tín của người khác thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
(1) Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát công tác phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước.
(2) Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực do mình phụ trách.
(3) Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát việc phát hiện và xử lý tham nhũng.
(4) Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng.
(5) Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng tại địa phương.
Hành vi tham nhũng được quy định tại Điều 2 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, gồm:
1.Các hành vi tham nhũng trong khu vực nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước thực hiện bao gồm:
-Tham ô tài sản;
-Nhận hối lộ;
-Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản;
-Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;
-Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;
-Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi;
-Giả mạo trong công tác vì vụ lợi;
-Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi;
-Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi;
-Nhũng nhiễu vì vụ lợi;-Không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;
-Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thực hiện bao gồm:-Tham ô tài sản;-Nhận hối lộ;-Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi.