Việt Nam là một nước giàu truyền thống, trải qua bao thăng trầm lịch sử. Gia đình luôn là nền tảng giữ vai trò cốt yếu trong các mối quan hệ giữa con người với con người. Trong một gia đình, ngoài quan hệ giữa cha mẹ với các con, giữa anh chị em, giữa ông bà với cháu là những người có quan hệ huyết thống thì quan hệ giữa vợ và chồng cũng là mối quan hệ chủ đạo. Nếu như ở giai đoạn trước, quan hệ về hôn nhân giữa nam và nữ được xã hội thừa nhận sau khi trải qua nghi thức kết hôn theo phong tục tập quán thì ngày nay, nam nữ chỉ được công nhận là vợ chồng sau khi thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy, tình trạng nam nữ không đăng ký kết hôn nhưng vẫn chung sống với nhau như vợ chồng và có xu hướng ngày càng phổ biến, đặc biệt là đối với giới trẻ.
Quy định nam nữ sống chung như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn như thế nào? Luật sư X sẽ giải đáp thắc mắc cho bạn tại bài viết dưới đây:
Căn cứ pháp lý
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
Nam nữ sống chung như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn có được công nhận là vợ chồng không?
Quy định về đăng ký kết hôn
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 9, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về Đăng kí kết hôn:
Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.
Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì:
“Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.
Điều kiện để đăng ký kết hôn
Khi đáp ứng được đầy đủ các điều kiện về kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, các bên có thể tiến hành thủ tục đăng kí kết hôn, những điều kiện ấy bao gồm:
“a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.
Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”
Tại khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội hướng dẫn về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của luật này được thực hiện như sau:
a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;
b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;
c) Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
Như vậy, đối với những trường hợp nam nữ chung sống với nhau trước ngày 03/01/1987, hiện họ chưa đăng ký kết hôn thì vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng (hôn nhân thực tế).
Nam nữ sống chung như vợ chồng như không đăng ký kết hôn được công nhận là vợ chồng trong những trường hợp nào?
Mối quan hệ giữa nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không chỉ tồn tại quan hệ giữa hai bên mà còn phát sinh các mối quan hệ về con cái, tài sản. Theo quy định tại Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, những vấn đề liên quan đến việc nam nữ không đăng ký kết hôn mà vẫn chung sống với nhau như vợ chồng được giải quyết như sau:
– Một, về quan hệ hôn nhân:
Căn cứ theo Hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP, có thể xác nhận, không phải trong mọi trường hợp các trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng đều không được pháp luật công nhận, cụ thể như sau:
+ Đối với trường hợp nam và nữ mặc dù không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn nhưng lại sống chung với nhau như vợ chồng từ thời điểm trước ngày 3/1/1987 thì quan hệ của họ vẫn được pháp luật thừa nhận là vợ chồng ngay từ thời điểm họ chung sống với nhau. Do đó, nếu hai bên không chung sống với nhau nữa và có yêu cầu ly hôn thì Tòa án sẽ tiến hành thụ lý và giải quyết theo quy định.
+ Nếu như nam và nữ có mối quan hệ sống chung với nhau bắt đầu từ thời điểm 3/1/1987 cho đến trước ngày 1/1/2001 thì theo quy định họ có thời gian 2 năm (từ 1/1/2001 đến 1/1/2003) để đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn. Nếu như sau thời gian này họ không thực hiện việc đăng ký kết hôn thì mối quan hệ của họ sẽ không được pháp luật thừa nhận là quan hệ vợ chồng hợp pháp.
+ Riêng đối với những trường hợp quan hệ sống chung như vợ chồng của nam nữ bắt đầu từ thời điểm ngày 1/1/2001 đến nay mà không có đăng ký kết hôn thì đều không được pháp luật công nhận.
– Hai, đối với các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái trong trường hợp này:
Theo quy định tại Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, dù quan hệ hôn nhân của nam, nữ chung sống với nhau không được pháp luật thừa nhận thì quan hệ giữa họ với con cái cũng vẫn được pháp luật bảo vệ bởi con cái sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ. Do đó đối với nam nữ sống chung với nhau mà không đăng ký kết hôn cũng sẽ không làm ảnh hưởng đến các quyền cũng như trách nhiệm của họ đối với các con của mình. Họ vẫn có thể thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình đối với con như chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con,..
– Ba, giải quyết các vấn đề liên quan đến hợp đồng, tài sản của nam nữ chung sống với nhau không đăng ký kết hôn.
Trong trường hợp trong quá trình chung sống với nhau, giữa nam và nữ hình thành những tài sản chung với nhau hay có những hợp đồng liên quan do cả hai bên cùng thực hiện thì về mặt nguyên tắc, pháp luật đều ưu tiên giải quyết trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên (Theo quy định tại Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014). Tuy nhiên, nếu các bên không tự thỏa thuận được, việc giải quyết sẽ được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Sống chung như vợ chồng có vi phạm pháp luật không?
Nếu như cả hai người đáp ứng được điều kiện kết hôn, không thuộc trường hợp cấm kết hôn quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 mà sống chung với nhau thì được coi là nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng và không trái với pháp luật, tuy nhiên, giữa hai bạn không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, khi hai bạn thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Quân nhân xin giấy xác nhận tình trạng hôn nhân ở đâu?
- Mất năng lực hành vi dân sự có được kết hôn không?
- Thời gian ly thân bao lâu thì có thể tiến hành thủ tục ly hôn?
Trên đây là tư vấn của Luật sư X về nội dung vấn đề “Quy định nam nữ sống chung như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn” Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc; cuộc sống. Nếu có thắc mắc và cần nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ hãy liên hệ 0833102102.
Câu hỏi thường gặp:
Kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng hạnh phúc gia đình.
Tảo hôn là hành vi vi phạm pháp luật. Nếu nhẹ thì bị xử lý hành chính từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng; từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Nếu đã bị xử lý vi phạm hành chính; nhưng vẫn tiếp tục vi phạm thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự; phạt từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm