Xin chào Luật sư X. Tôi tên là Quốc Huy, hiện tôi đang sinh sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi và chồng tôi sau thời gian dài thường xuyên xảy ra bất đồng và cãi vã, chúng tôi quyết định sẽ làm thủ tục ly hôn. Tôi và anh ấy sống với nhau đã được 15 năm, có một cô con gái 12 tuổi. Sau khi ly hôn, tôi muốn mình sẽ là người trực tiếp cấp dưỡng và nuôi bé. Tuy nhiên, chồng tôi cũng có nguyện vọng nuôi bé. Tôi được biết rằng, con trên 7 tuổi thì pháp luật sẽ dựa theo ý kiến của con có đúng không ạ? Luật sư có thể trả lời giúp tôi về vấn đề quyền nuôi con sau khi ly hôn được quy định như thế nào? Tôi xin chân thành cảm ơn. Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho LSX. Để giải đáp thắc mắc “Quyền nuôi con trên 9 tuổi sau khi ly hôn như thế nào?” và cũng như nắm rõ một số vấn đề xoay quanh câu hỏi này. Mời bạn tham khảo bài viết dưới đây của chúng tôi như sau:
Căn cứ pháp lý
Cấp dưỡng nuôi con là gì?
Theo Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định tại khoản 24 Điều 3 giải thích rõ về cấp dưỡng:
“Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân; huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên; người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này..”
Căn cứ khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về nghĩa vụ; quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:
“1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con…”
Như vậy, cấp dưỡng cho con là nghĩa vụ của cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con; sẽ đóng tiền hoặc tài sản khác nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con thành niên mà không thể tự nuôi bản thân.
Quyền nuôi con trên 9 tuổi sau khi ly hôn như thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, quy định về người có quyền nuôi con trên 9 tuổi sau khi ly hôn như sau:
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Như vậy, con ở độ tuổi 9 tuổi là trẻ chưa vị thành niên, do đó sau khi ly hôn thì cha mẹ phải tiến hành tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc con. Tòa án sẽ xác định quyền nuôi con trên 9 tuổi sau khi ly hôn sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Tòa án sẽ căn cứ chủ yếu vào các yếu tố sau:
+ Xét về điều kiện về vật chất gồm có: Điều kiện sinh sống tối thiểu cho con, cơ sở vật chất, điều kiện kèm theo ăn ở cũng như hoạt động và sinh hoạt đời sống hàng ngày. Ngân sách chi tiêu cho con tham gia những lớp học, sở trường thích nghi của con.
+ Các yếu tố về ý thức gồm có: Bên cạnh những điều kiện kèm theo vật chất thì đời sống ý thức là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tác động đến những con, Tòa án sẽ xem xét ai ở gần con nhiều hơn, có thời hạn dành cho con, đi dạo và chăm nom con trong mọi yếu tố đời sống.
+ Nguyện vọng của con: Theo luật hiện hành thì từ khi con đủ 7 tuổi, việc con sống với ai phải tham khảo ý kiến của con. Do đó việc quyết định quyền nuôi con trên 9 tuổi cũng sẽ phải phụ thuộc vào nguyện vọng và mong muốn của con.
Quyền của người khi không trực tiếp nuôi dưỡng con
Người không trực tiếp nuôi con phải tôn trọng quyền của con khi con sống với người còn lại. Đồng thời có nghĩa vụ cấp dưỡng và có quyền thăm con mà không ai được cản trở.
Quyền thăm nom khi không trực tiếp nuôi con
Mặc dù không được trực tiếp nuôi con nhưng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người này cùng với tôn trọng tình cảm cha mẹ con cái được pháp luật bảo vệ, người không nuôi con được quyền thăm nom con cái mà không ai được cản trở. Tuy nhiên, không thể lấy lý do thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Khi đó, người có trách nhiệm nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom. Cụ thể, các trường hợp sau đây sẽ bị Tòa án hạn chế quyền thăm nom con:
- Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý
- Có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
- Phá tài sản của con;
- Có lối sống đồi trụy;
- Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
Người không trực tiếp nuôi nấng con cái phải có nghĩa vụ cấp dưỡng để san sẻ một phần gánh nặng về tiền bạc đối với người nuôi con. Theo đó, mức cấp dưỡng bao nhiêu sẽ do hai bên thỏa thuận căn cứ vào thu nhập thực tế, khả năng tài chính của người cấp dưỡng cũng như nhu cầu chi tiêu của người con. Chỉ khi không thể thỏa thuận được, Tòa án mới áp dụng mức cấp dưỡng cho các bên. Thông thường mức cấp dưỡng thường vào khoảng 15-30% mức thu nhập của người cấp dưỡng.
Không cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn có bị xử phạt?
Tùy theo mức độ nghiêm trọng; việc không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn có thể bị xử phạt hành chính hoặc nghiêm trọng hơn sẽ bị xử lý hình sự.
Về xử phạt hành chính
Điều 54 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định như sau:
“Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng khi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng; chăm sóc con sau khi ly hôn”
Truy cứu trách nhiệm hình sự
Ngoài ra; hành vi cố ý không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng quy định tại Điều 186 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
+ Trường hợp từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng; làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng; sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo; phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
+ Trường hợp nghĩa vụ cấp dưỡng đã được thể hiện trong bản án; quyết định của Tòa án mà người cấp dưỡng không chấp hành bản án mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Ngoài ra; người trốn nghĩa vụ cấp dưỡng trong trường hợp này còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Mời bạn xem thêm
- Phí xây dựng nông thôn mới có bắt buộc phải đóng góp không?
- Diện tích tối thiểu tách thửa đất ở nông thôn là bao nhiêu?
- Quy định về Thuế đất thổ cư nông thôn ra sao năm 2022?
Thông tin liên hệ
Trên đây là bài viết tư vấn về “Quyền nuôi con trên 9 tuổi sau khi ly hôn như thế nào?“. Nếu cần giải quyết nhanh gọn các vấn đề liên quan tới quy định tạm ngừng kinh doanh, thủ tục tạm ngừng kinh doanh, mẫu hồ sơ tạm ngừng kinh doanh thì hãy liên hệ ngay tới Luật sư X theo số hotline 0833.102.102 để chúng tôi nhanh chóng tư vấn hỗ trợ và giải quyết vụ việc. Với các luật sư có chuyên môn cao cùng kinh nghiệm dày dặn, chúng tôi sẽ hỗ trợ 24/7, giúp bạn tiết kiệm chi phí và ít đi lại.
Câu hỏi thường gặp
Cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi có quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con được quy định trong Luật này kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi được xác lập theo quy định của Luật nuôi con nuôi.
Trong trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quyết định của Tòa án thì quyền, nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Quyền, nghĩa vụ của cha đẻ, mẹ đẻ và con đã làm con nuôi của người khác được thực hiện theo quy định của Luật nuôi con nuôi.
Quyền, nghĩa vụ giữa cha đẻ, mẹ đẻ và con đẻ được khôi phục kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt. Trong trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ không còn hoặc không có đủ điều kiện để nuôi con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì Tòa án giải quyết việc chấm dứt nuôi con nuôi và chỉ định người giám hộ cho con theo quy định của Bộ luật dân sự.
Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.
Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.
Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.