Trên lĩnh vực y tế, nhờ sự ra đời của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, vấn đề vô sinh của các cặp vợ chồng hiện nay đã được giải quyết. Việc sinh con theo phương pháp này ngày càng phổ biến. Tuy nhiên đã làm nảy sinh nhiều vấn đề pháp lý; trong đó việc xác định cha, mẹ, con là đặc biệt quan trọng. Vậy xác định cha mẹ con trong trường được sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản được pháp luật quy định như thế nào?
Tham khảo bài viết dưới đây của Luật sư X.
Cơ sở pháp lý
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Xác định cha mẹ con khi sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là gì?
Khoản 2 điều 26 BLDS 2015 xác định: “Cha đẻ, mẹ đẻ được quy định trong Bộ luật này là cha, mẹ được xác định dựa trên sự kiện sinh đẻ; người nhờ mang thai hộ với người được sinh ra từ việc mang thai hộ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình”. Về nguyên tắc, người cha, người mẹ, người con về mặt sinh học sẽ đương nhiên trùng với người cha, người mẹ về mặt pháp lý. Vì mối quan hệ này có xuất phát điểm là sự kiện sinh đẻ để nhằm đảm bảo huyết hệ tự nhiên giữa hai thế hệ sinh ra kế tiếp nhau. (trừ một số trường hợp đặc biệt).
Khoản 21, Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo; hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”. Hay nói cách khác, đó là việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật y học hiện đại để can thiệp vào quá trình thụ thai của người phụ nữ; nhằm mục đích giúp những cặp vợ chồng hiếm muộn, vô sinh hoặc phụ nữ độc thân có thể mang thai và có những đứa con như họ mong muốn.
Các trường hợp xác định cha mẹ con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Đối với cặp vợ chồng vô sinh
Trong thời kỳ hôn nhân, sự kiện sinh đẻ của người vợ trong cặp vợ chồng cô sinh là cơ sở để phát sinh mối quan hệ cha, mẹ, con. Do đó, dựa vào sự kiện sinh đẻ thì quan hệ giữa mẹ – con là tất yếu. Con sinh ra nhờ biện pháp hỗ trợ sinh sản trong thời kỳ hôn nhân sẽ mặc nhiên được pháp luật thừa nhận mối liên hệ cha, mẹ, con.
Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản chỉ được thực hiện khi có sự tự nguyện của cặp vợ chồng vô sinh. Như vậy, người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh được xác định là mẹ của đứa trẻ trong mọi trường hợp; kể cả người mẹ nhận noãn hoặc phôi của người khác. Người chồng hợp pháp của người mẹ là cha của đứa trẻ; ngay cả trong trường hợp người chồng không phải là người cho tinh trùng.
Quy định này được xác lập dựa trên nguyên tắc tại khoản 1 điều 88 Luật hôn nhân gia đình: “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân; hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng”.
Đối với người phụ nữ độc thân
Căn cứ để xác định cha, mẹ, con trong trường hợp này chỉ dựa vào sự tự nguyện và sự kiện sinh đẻ của chính họ. Người phụ nữ độc thân là mẹ của đứa trẻ và chỉ tồn tại quan hệ mẹ con. Họ không có quyền yêu cầu xác định cha cho đứa trẻ. Pháp luật quy định cho phép người phụ nữ độc thân nhận tinh trùng và nhận phôi trong trường hợp người này không có noãn; hoặc noãn không bảo đảm chất lượng để thụ thai:
“Người nhận tinh trùng phải là … phụ nữ độc thân có nhu cầu sinh con; và noãn của họ bảo đảm chất lượng để thụ thai. Người nhận phôi phải thuộc trường hợp là Phụ nữ độc thân mà không có noãn; hoặc noãn không bảo đảm chất lượng để thụ thai”.
Như vậy, việc xác định quan hệ cha mẹ con trong trường hợp người phụ nữ độc thân sinh con bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản được áp dụng tương tự như trường hợp xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp pháp. Trường hợp này chỉ có quan hệ giữa mẹ và con. Người phụ nữ độc thân là mẹ của đứa trẻ được sinh ra trong mọi trường hợp; kể cả người mẹ này nhận tinh trùng hoặc phôi từ người khác.
Mối quan hệ giữa đứa trẻ được sinh ra với người cho tinh trùng, noãn, phôi
Khoản 3 điều 93 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra”.
Trên thực tế, đây là cha mẹ sinh học của đứa trẻ. Tuy nhiên xét về mặt pháp lý, pháp luật đã quy định giữa con được sinh ra và người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi không tồn tại bất cứ quyền và nghĩa vụ nào. Con sinh ra không được hưởng quyền yêu cầu thừa kế; quyền được nuôi dưỡng với người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi.
Pháp luật cũng quy định rất rõ một trong những nguyên tắc áp dụng biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tại khoản 4 điều 3 Nghị định 10/2015/NĐ-CP: “Việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận; tinh trùng, phôi của người cho phải được mã hóa để bảo đảm bí mật…”
Ý nghĩa của việc xác định cha mẹ con
Về mặt pháp lí
Xác định cha, mẹ, con khi sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì nó liên quan đến nhiều chủ thể; đặc biệt trong việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con cái và ngược lại. Chế định này cũng tạo cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết tranh chấp về: nuôi con; cấp dưỡng, thừa kế;…giữa cha mẹ, con cũng như các thành viên khác trong gia đình; nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho họ.
Về mặt xã hội
Thứ nhất, sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản là kết quả của việc ứng dụng thành tựu khoa học kĩ thuật trong lĩnh vực y học
Thứ hai, sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản mang ý nghĩa nhân văn; đảm bảo quyền làm cha, làm mẹ, đảm bảo cho những người phụ nữ thực hiện thiên chức làm mẹ, chức năng sinh đẻ.
Thứ ba, sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản đảm bảo thực hiện chức năng cơ bản của gia đình;– chức năng tái sản xuất con người.
Liên hệ Luật sư X
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề: “Xác định cha mẹ con khi sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản”. Hy vọng bài viết hữu ích đối với bạn đọc. Để sử dụng dịch vụ của chúng tôi mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.
Liên hệ hotline: 0833.102.102
- FaceBook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Điều 90 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:
Con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết.
Con đã thành niên nhận cha, không cần phải có sự đồng ý của mẹ; nhận mẹ, không cần phải có sự đồng ý của cha.
Điều 91 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:
Cha, mẹ có quyền nhận con, kể cả trong trường hợp con đã chết.
Trong trường hợp người đang có vợ, chồng mà nhận con thì việc nhận con không cần phải có sự đồng ý của người kia.
Điều 101 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:
1. Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp.
2. Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết; và trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này.
Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch; các bên trong quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.