Thi hành bản án hành chính là thực hiện bản án, quyết định của Tòa hành chính đã có hiệu lực pháp luật. Nhiều trường hợp có bản án, quyết định của Tòa án, bên thi hành án không thể cho thi hành vì một số lý do khách quan. Vì vậy để hiểu rõ thủ tục thi hành án được pháp luật quy định như thế nào?.
Khiếu nại quyết định thu hồi về đất đai là một trong những quyền của người sử dụng đất, cũng là khiếu nại thường gặp nhiều. Vậy pháp luật quy định thế nào? Có những bản án hành chính về thu hồi đất cụ thể ra sao? Hãy cùng tham khảo qua bài viết dưới đây của LSX nhé!
Khi nào Nhà nước thu hồi đất?
Nhà nước thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:
- Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh
- Thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng.
- Thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai.
- Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người.
- (Điều 61, 62, 64, 65 Luật Đất đai 2013)
Thẩm quyền thu hồi đất
Thẩm quyền thu hồi đất sẽ thuộc về các chủ thể sau đây:
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
- Ủy ban nhân dân cấp huyện
- Ban Quản lý khu công nghệ cao
- Ban Quản lý khu kinh tế
- Cảng vụ hàng không quyết định thu hồi đất đối với trường hợp được Cảng vụ hàng không giao đất mà thuộc các trường hợp quy định tại các Điểm a, b, e, g và i Khoản 1 Điều 64 và các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 65 Luật Đất đai 2013.
Bản án hành chính về thu hồi đất
Nhằm đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị thu hồi đất, giảm thiểu khiếu kiện trong bồi thường, giải phóng mặt bằng, Luật Đất đai 2013 tiếp tục kế thừa những những quy định còn phù hợp của Luật đất đai 2003 đồng thời đã sửa đổi, bổ sung một số quy định mới nhằm đưa chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong Nghị quyết 19/NQ-TW đi vào cuộc sống. Xin giới thiệu khái quát một số nội dung chủ yếu có tính đổi mới trong lĩnh vực bồi thường, giải phóng mặt bằng quy định trong Luật Đất đai 2013 so với Luật Đất đai năm 2003.
Mời bạn tham khảo Bản án hành chính thu hồi đất dưới đây:
Từ bản án trên ta thấy;
Nội dụng vụ án:
Căn cứ vào bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố H, nội dung vụ án; được tóm tắt như sau: Theo đơn khởi kiện; và quan điểm của ông Nguyễn Đức V và người đại diện theo ủy quyền trình bày:
- Năm 2008 ông Nguyễn Đức V nhận chuyển nhượng từ ông Phan Nguyên H; thửa đất số 14D tờ bản đồ địa chính số 22 tại; địa chỉ tổ 2 khu 1 phường Đ, thành phố H.
- Ngày 18/8/2009 ông V được cấp giấy chứng nhận quyền; sử dụng đất mang tên Nguyễn Đức V với tổng diện tích được cấp là 434,9m2; (trong đó 40m2 đất ở, đất trồng cây lâu năm là 394,9m2); theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD477513 của UBND thành phố H.
- Năm 2012, để thực hiện dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18A đoạn Uông Bí-Hạ Long; và thực hiện dự án Trung tâm thể thao vùng Đông Bắc mở rộng, UBND thành phố H; đó ban hành quyết định số 2998/QĐ-UBND ngày 07/12/2012 và Quyết định số 3007/QĐ-UBND; về việc thu hồi đất của 32 hộ gia đình, trong đó; có hộ ông Nguyễn Đức V.Tại các quyết định 3138/QĐ-UBND, 3139/QĐ-UBND ngày 19/12/2012; Quyết định số 298/QĐ-UBND ngày 30/01/2013, Quyết định số 159/QĐ-UBND ngày 06/02/2013.
Quyết định số 2003/QĐ-UBND ngày 20/8/2013 của UBND thành phố H về việc phê duyệt phương án bồi thường, bổ sung phương án bồi thường, hỗ trợ cho hộ ông Nguyễn Đức V. Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại nêu trên, ngày 06/10/2015 ông Nguyễn Đức V đã làm đơn khởi kiện vụ án hành chính đối với UBND thành phố H.
Yêu cầu: Hủy toàn bộ Quyết định hành chính số 2261/QĐ-UBND ngày 10/9/2015; của Chủ tịch UBND thành phố H với các lý do sau:
1.Quyết định số 2261/QĐ-UBND ngày 10/9/2015 của Chủ tịch UBND thành phố H; về việc giải quyết khiếu nại lần đầu là trái pháp luật, không chính xác, thiếu căn cứ; pháp lý, trái với các quy định tại điều 47 nghị định 84/2007; khoản 3 điều 91 nghị định 181/2004, khoản 1,2 điều 13; khoản 1,2 điều 42, khoản 1 điều 83, khoản 2, 3 điều 113 Luật đất đai 2003.
Cụ thể:
- Quyết định 2261/QĐ-UBND có sự sai lệch các số liệu là: ghi thửa đất số 15 +16; tờ bản đồ địa chính số 24 trong khi trong giấy CNQSDĐ cấp; cho ông V ghi thửa đất số 14D tờ bản đồ số 22.-Quyết định 2261/QĐ-UBND; ghi 394,9m2đất là đất nông nghiệp trồng cây lâu năm; trong khi giấy CNQSDĐ của ông V chỉ ghi là đất trồng cây lâu năm.
- Quyết định 2261/QĐ-UBND ghi ông V có 75,6m2đất là đất chuyên dùng;(hành lang kênh N1) là sai lệch với bản chứng nhận nhà; đất ngày 20/6/2012 của UBND phường Đ, và trong bản đồ giải phóng mặt bằng; không thể hiện có diện tích đất chuyên dùng.
- Quyết định 2261/QĐ-UBND cho rằng 394,9m2 đất của ông V; là đất nông nghiệp trồng cây lâu năm nên đã bồi thường đất nông nghiệp trồng cây lâu; năm là không có căn cứ và vi phạm khoản 2 điều 113 Luật đất đai 2003. Và theo điều 13 và khoản 1 điều 83 luật đất đai 2003; thì 394,9m2phải được coi là đất ở tại nông thôn.
Xét thấy:
Về việc ghi số liệu, địa chỉ thửa đất: Tại phần 1-Nguồn gốc, quá trình sử dụng đất; của Quyết định số 2261/QĐ-UBND ghi thửa đất của ông V là thửa số 14D tờ bản đồ địa chính số 24 là không đúng với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; của ông V (Tờ bản đồ địa chính số 22). UBND thành phố H đã thừa nhận sai sót; do lỗi soạn thảo văn bản ghi nhầm tờ bản đồ địa chính số 22, thực tế thuộc tờ bản đồ địa chính; số 24 và sẽ chỉ đạo phòng Tài nguyên môi trường đính chính lại; như trước đây, nhưng nay thấy không cần thiết phải đính chính; vì diện tích đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông V đã bị thu hồi, và bồi thường theo đúng quy định của pháp luật.
Như vây; Theo quy định tại Luật Đất đai 2013 khoản 12 Điều 3; như sau: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; là việc nhà nước trả cho người có đất thu hồi; và các chủ thể có liên quan bị thiệt hại; trong quá trình thu hồi đất những thiệt hại về quyền sử dụng đất; hoặc quyền sở hữu, sử dụng đối với công trình, vật kiến trúc, cây trồng, vật nuôi; và những thiệt hại khác liên quan do việc thu hồi đất gây ra.”
Tại Điều 62 Luật Đất đai 2013 quy định về Thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội; vì lợi ích quốc gia, công cộng, Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội; vì lợi ích quốc gia, công cộng bao gồm; dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật cấp quốc gia; gồm giao thông, thủy lợi, cấp nước,…
Người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất ở để phục vụ mục đích; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng sẽ được bồi thường khi đáp ứng được các điều kiện; quy định tại Điều 75 Luật Đất đai. Người sử dụng đất có đất và tài sản trên đất được bồi thường; về đất khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thông tin liên hệ
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về; “Bản án hành chính về thu hồi đất”. Nếu quý khách có nhu cầu soạn thảo hồ sơ ngừng kinh doanh; mẫu đơn xin tạm ngừng kinh doanh tìm hiểu về; thủ tục thành lập công ty ở việt nam; đơn xác nhận tình trạng hôn nhân; đăng ký bảo hộ thương hiệu độc quyền hoặc muốn sử dụng dịch vụ tạm ngừng kinh doanh; dịch vụ hợp pháp hóa lãnh sự hà nội của chúng tôi; mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.
Liên hệ hotline: 0833.102.102.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Mẫu nhận xét của chi ủy đối với Đảng viên mới
- Mẫu quyết định bổ nhiệm kế toán trưởng mới nhất
- Bản tự nhận xét đánh giá cán bộ để bổ nhiệm có mẫu như thế nào?
Câu hỏi thường gặp
1 Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:
a) Thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều này;
b) Thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:
a) Thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư;
b) Thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
3. Trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất.
Việc thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng phải dựa trên các căn cứ sau đây:
1. Dự án thuộc các trường hợp thu hồi đất quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Luật này;
2. Kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;
3. Tiến độ sử dụng đất thực hiện dự án.
Các chế định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật Đất đai 2003 được quy định trong 03 điều (41, 42, và 43), trên thực tế đã chưa thể chế hết các quy định mang tính nguyên tắc này để thực hiện thống nhất khi xử lý những vấn đề phức tạp phát sinh trong thực tiễn thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại các địa phương. Khắc phục hạn chế này, Luật Đất đai 2013 đã tách nguyên tắc bồi thường về đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành 02 điều riêng biệt (74 và 88).