Theo quy định của pháp luật, chủ thể có hành vi phạm tội xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về hành vi phạm tội của mình. Vậy truy cứu trách nhiệm hình sự là gì? Để trả lời câu hỏi này, hãy cùng Luật sư X tìm hiểu qua bài dưới đây:
Căn cứ pháp lý
Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017
Truy cứu trách nhiệm hình sự là gì?
Truy cứu trách nhiệm hình sự là việc áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự qua các giai đoạn từ khởi tố vụ án, khởi tố bị can, đến điều tra, truy tố và xét xử để buộc người đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm phải chịu trách nhiệm về hành vi ấy, tức là phải chịu hình phạt.
Người có khả năng nhận thức được hành vi của mình, có khả năng điều khiển được hành vi đó là người có năng lực trách nhiệm hình sự và sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu người đó thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự.
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Tại Điều 27 – Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, theo đó thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định dựa vào mức độ nghiêm trọng của tội phạm như sau:
– 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng
– 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng
– 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng
– 20 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng
Việc xác định mức độ nghiêm trọng không phức tạp mà chỉ cần dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Truy tố trách nhiệm hình sự kết thúc khi có bản án, quyết định của Tòa án; hoặc hết thời hiệu truy tố Trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên cũng có những trường hợp sẽ không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm trên đây. Đó là những trường hợp đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia được quy định tại Bộ luật Hình sự; các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; tội tham ô tài sản, hối lộ theo quy định của pháp luật.
Thẩm quyền truy tố trách nhiệm hình sự
Quy định tại Điều 239 Bộ luật Tố tụng dân sự đã xác định cụ thể thẩm quyền truy tố. Theo đó Viện kiểm sát cấp nào thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thì Viện kiểm sát cấp đó quyết định việc truy tố. Thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát được xác định theo thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với vụ án.
– Viện kiểm sát cấp nào thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thì Viện kiểm sát cấp đó quyết định việc truy tố. Thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát được xác định theo thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với mỗi vụ án.
– Đối với vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra; thì Viện kiêm sát cấp trên quyết định việc truy tố. Chậm nhất là 02 tháng trước khi kết thúc điều tra; Viện kiểm sát cấp trên phải thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án; để cử Kiểm sát viên tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án.
– Ngay sau khi quyết định truy tố, Viện kiểm sát cấp trên ra quyết định phân công cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử; sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng; Viện kiểm sát cấp dưới có thẩm quyền thực hành quyền công tố; và kiểm sát xét xử theo đúng quy định của Bộ luật này.
– Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án; Viện kiểm sát phải thông báo bằng văn bản cho Cơ quan đã kết thúc điều tra vụ án, bị can; hoặc người đại diện của bị can, người bào chữa, bị hại, người tham gia tố tụng khác.
Những trường hợp không bị truy cứu trách nhiệm hình sự
– Người thực hiện hành vi phạm tội nhưng đã hết thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật;
– Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật Hình sự năm 2015; nhưng bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi; người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết không yêu cầu khởi tố;
– Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa đến tuổi chịu trách nhiêm hình sự; thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
– Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố (bao gồm bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết) rút yêu cầu thuộc các trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 226 của Bộ luật hình sự năm 2015 thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức. Điều này có nghĩa là người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
– Trường hợp đã hết thời hạn điều tra vụ án; mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.
Bạn đọc có thể quan tâm:
Thẩm quyền truy tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật?
Thông tin liên hệ Luật sư X
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật sư X về chủ đề: “Truy cứu trách nhiệm hình sự là gì?“. Chúng tôi hi vọng rằng bài viết có giúp ích được cho bạn.
Luật sư X là đơn vị Luật uy tín; chuyên nghiệp, được nhiều cá nhân, tổ chức tin tưởng lựa chọn. Để sử dụng dịch vụ pháp lý của chúng tôi, hãy liên hệ qua số hotline: 0833102102
- Facebook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Khi đáp ứng đủ các điều kiện hành vi đánh bạc sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với các mức hình phạt sau:
Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng; phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm; phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm
Nếu tính chất của hành vi trốn tránh nghĩa vụ có ảnh hưởng nguy hiểm đến xã hội; mà xét thấy đủ cấu thành tội Trốn tránh nghĩa vụ được quy định tại Điều 332 Bộ luật hình sự 2015; thì người có phải chịu trách nhiệm hình sự.
Hành vi này có thể bị xử phạt đến 3 năm tù.
Nếu mức độ nguy hiểm của hành vi này lớn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự; về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng; quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Với hình phạt là phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm; hoặc phạt tù lên đến 03 năm