Năm 2023, hành vi mua bán trẻ sơ sinh bị phạt bao nhiêu năm tù?

bởi Nguyen Duy
Năm 2023, hành vi mua bán trẻ sơ sinh bị phạt bao nhiêu năm tù

Xin chào Luật sư, hiện nay ở các tỉnh gần biên giới Trung Quốc xuất hiện rất nhiều vụ mua bán trẻ sơ sinh bằng nhiều hình thức khác nhau, điều này là trái với đạo đức xã hội và làm tôi rất bức xúc. Tôi biết pháp luật Việt Nam có quy định về hành vi mua bán trẻ em. Vậy năm 2023, hành vi mua bán trẻ sơ sinh bị phạt bao nhiêu năm tù? Xin được giải đáp.

Để giải đáp vấn đề trên mời quý độc giả cùng Luật sư X tham khảo bài viết dưới đây để biết thêm chi tiết.

Căn cứ pháp lý

Thế nào là hành vi mua bán trẻ sơ sinh?

Tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 02/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Tội mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi, tại Điều này quy định rõ mua bán người dưới 16 tuổi là thực hiện một trong các hành vi sau đây:

  • Chuyển giao người dưới 16 tuổi nhằm để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp là vì mục đích nhân đạo;
  • Tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp là vì mục đích nhân đạo;
  • Chuyển giao người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì các mục đích vô nhân đạo khác;
  • Tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì các mục đích vô nhân đạo khác;
  • Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi Chuyển giao người dưới 16 tuổi nhằm để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp là vì mục đích nhân đạo hoặc hành vi Chuyển giao người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì các mục đích vô nhân đạo khác.

Từ căn cứ trên thì cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi sau đây thì được xem là mua bán trẻ sơ sinh, cụ thể:

  • Chuyển giao trẻ sơ sinh nhằm để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;
  • Tiếp nhận trẻ sơ sinh nhằm để giao tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;
  • Chuyển giao người dưới 16 tuổi nhằm để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
  • Tiếp nhận trẻ sơ sinh để lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
  • Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp trẻ sơ sinh để thực hiện hành vi Chuyển giao trẻ sơ sinh nhằm để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo hoặc hành vi Chuyển giao người dưới 16 tuổi nhằm để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.

Người có hành vi lợi dụng việc cho nhận con nuôi là trẻ sơ sinh để bán cho người khác thì bị xử lý như thế nào?

Theo khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 02/2019/NQ-HĐTP quy định như sau:

Truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp sử dụng thủ đoạn môi giới nuôi con nuôi

  1. Người sử dụng thủ đoạn môi giới nuôi con nuôi dưới 16 tuổi bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 151 của Bộ luật Hình sự nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
    a) Biết mục đích của người nhận nuôi con nuôi dưới 16 tuổi là để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể, bán cho người khác hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác nhưng vẫn chuyển giao nạn nhân để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;
    b) Lợi dụng việc cho nhận con nuôi để tiếp nhận con nuôi là người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
    c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác để môi giới nhận nuôi con nuôi dưới 16 tuổi trái pháp luật hoặc tạo điều kiện cho việc môi giới, nhận nuôi con nuôi trái pháp luật mà biết mục đích của người nhận nuôi con nuôi là nhằm bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.

    Căn cứ quy định trên thì người có hành vi lợi dụng việc cho nhận con nuôi để tiếp nhận con nuôi là trẻ sơ sinh để bán cho người khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 151 Bộ luật Hình sự 2015.

Hành vi mua bán trẻ sơ sinh bị phạt bao nhiêu năm tù?

Năm 2023, hành vi mua bán trẻ sơ sinh bị phạt bao nhiêu năm tù
Năm 2023, hành vi mua bán trẻ sơ sinh bị phạt bao nhiêu năm tù

Cấu thành tội phạm đối với hành vi mua bán trẻ sơ sinh

Cá nhân, tổ chức nào có hành vi mua bán trẻ sơ sinh thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu như cá nhân, tổ chức đó có đầy đủ các yếu tố cấu thành nên tội mua bán người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 151 Bộ Luật Hình sự 2015, cụ thể như sau:

– Khách thể của tội phạm:

Khách thể của tội phạm này chính là nhân phẩm và sự phát triển bình thường của trẻ sơ sinh; hay là xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, về danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của con người; xâm hại đến các quyền là được chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em đã được Hiến pháp và pháp luật quy định.

Ngoài ra, tội mua bán trẻ sơ sinh xâm phạm đến quyền tự do thân thể, xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của con người đã được pháp luật bảo vệ; trẻ em bị mua bán, bị đánh tráo hoặc chiếm đoạt, bị xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, đến sức khỏe và quyền được quản lý, chăm sóc, giáo dục được luật hình sự bảo vệ.

– Mặt khách quan của tội phạm:

  • Nhóm hành vi khách quan thứ 1: thực hiện hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận trẻ sơ sinh để giao nhận tiền; các tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Xét về bản chất, thì đây là hành vi dùng tiền hoặc những phương tiện thanh toán khác như là vàng, ngoại tệ… để trao đổi mua bán trẻ sơ sinh như hàng hóa.
  • Nhóm hành vi khách quan thứ 2: thực hiện hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận trẻ sơ sinh để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động; lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. Trong đó bóc lột tình dục được hiểu là hành vi ép buộc người khác bán dâm.
  • Nhóm hành vi khách quan thứ ba: thực hiện hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp trẻ sơ sinh để thực hiện các hành vi thuộc nhóm thứ nhất hoặc thứ hai. Theo đó tuyển mộ trẻ sơ sinh ở trong điều luật này có thể được xác định là các hành vi tuyển lựa; lựa chọn trẻ sơ sinh để thực hiện các hành vi như là chuyển giao; tiếp nhận nhằm để giao, nhận tiền, tài sản; hoặc các lợi ích vật chất khác (trừ trường hợp là vì mục đích nhân đạo); hay để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác

– Hậu quả:

Hậu quả của tội mua bán trẻ sơ sinh là việc nạn nhân bị đưa ra mua bán, trao đổi như hàng hóa. Họ có thể bị sử dụng vào những mục đích vô nhân đạo khác.

– Mặt chủ quan của tội phạm:

Tội mua bán trẻ sơ sinh là lỗi cố ý trực tiếp; bởi người phạm tội rõ ràng nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, đã thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn thực hiện được hành vi để đạt được những mục đích nhất định.

– Chủ thể của tội phạm:

Về chủ thể của tội phạm mua bán trẻ sơ sinh: Hai dấu hiệu pháp lý bắt buộc của chủ thể tội phạm mua bán trẻ sơ sinh là: năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi. Người phạm tội mua bán trẻ sơ sinh có năng lực trách nhiệm hình sự, là người mà khi thực hiện hành vi phạm tội này rõ ràng có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi và điều khiển được hành vi đó.

Khi cá nhân, tổ chức có hành vi mua bán trẻ sơ sinh mà có đầy đủ các các yếu tố cấu thành nên tội mua bán người dưới 16 tuổi thì sẽ bị xử phạt như sau:

Mức xử lý hình sự đối với hành vi mua bán trẻ sơ sinh

– Khung 1: Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây, thì sẽ bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:

+) Chuyển giao hoặc tiếp nhận trẻ sơ sinh để giao, nhận tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;

+) Chuyển giao hoặc tiếp nhận trẻ sơ sinh để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;

+) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp trẻ sơ sinh để thực hiện hành vi chuyển giao trẻ sơ sinh để nhận tiền, nhận tài sản hoặc lợi ích vật chất khác và chuyển giao trẻ sơ sinh để người khác bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.

– Khung 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì sẽ bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

+) Lợi dụng các chức vụ, quyền hạn;

+) Lợi dụng hoạt động cho nhận con nuôi là trẻ sơ sinh để phạm tội;

+) Đối với từ 02 trẻ sơ sinh đến 05 trẻ sơ sinh;

+) Đối với trẻ sơ sinh mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng;

+) Đưa nạn nhân (trẻ sơ sinh) ra khỏi biên giới của nước ta;

+) Phạm tội 02 lần trở lên;

+) Vì động cơ đê hèn;

+) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân (trẻ sơ sinh) từ 11% đến 45%;

+) Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe nạn nhân (trẻ sơ sinh) mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên.

– Khung 3: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì sẽ bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

+) Có tổ chức;

+) Có tính chất chuyên nghiệp;

+) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân (trẻ sơ sinh) 46% trở lên;

+) Đã lấy các bộ phận cơ thể của trẻ sơ sinh;

+) Đối với 06 trẻ sơ sinh trở lên;

+) Tái phạm nguy hiểm.

– Hình phạt bổ sung: Người phạm tội mua bán trẻ sơ sinh còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định từ 01 năm cho đến 05 năm, bị phạt quản chế từ 01 năm đến 05 năm hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Mời các bạn xem thêm bài viết

Thông tin liên hệ

Trên đây là nội dung bài viết liên quan đến vấn đề “Năm 2023, hành vi mua bán trẻ sơ sinh bị phạt bao nhiêu năm tù” Hy vọng bài viết có ích cho độc giả, Luật sư X với đội ngũ luật sư, luật gia và chuyên viên pháp lý dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ cung cấp dịch vụ pháp lý như Tranh chấp đất đai. Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe mọi thắc mắc của quý khách hàng. Thông tin chi tiết quý khách hàng vui lòng liên hệ qua số hotline: 0833.102.102

Câu hỏi thường gặp

Hành vi vứt bỏ con mới đẻ mang lại hậu quả như thế nào thì được coi là phạm tội?

Hành vi vứt bỏ con mới đẻ dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết đòi hỏi phải có hậu quả chết người xảy ra mới coi là phạm tội.

Một số quyền hạn và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc con nhỏ?

Theo Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về nghĩa vụ và quyền của cha mẹ như sau:
Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.
Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.
Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

Cha mẹ không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con thì có thể bị xử phạt như thế nào?

Việc cha mẹ không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con thì có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định 130/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em như sau:
“Điều 21. Vi phạm quy định về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em trừ trường hợp bị buộc phải tạm thời cách ly trẻ em hoặc trẻ em được chăm sóc thay thế theo quy định của pháp luật;
b) Cha mẹ, người chăm sóc trẻ em không quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em, không thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em hoặc bỏ mặc trẻ em tự sinh sống, cắt đứt quan hệ tình cảm và vật chất với trẻ em hoặc ép buộc trẻ em không sống cùng gia đình, trừ trường hợp bị buộc phải tạm thời cách ly trẻ em hoặc trẻ em được chăm sóc thay thế theo quy định của pháp luật.
Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em có hành vi cố ý bỏ rơi trẻ em.”
Theo đó, nếu cha mẹ của bé không thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng bé thì có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đến 15 triệu. Còn mức phạt tiền đối với tổ chức vi phạm gấp hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định 130/2021/NĐ-CP.

5/5 - (1 bình chọn)

Liên hệ để được hỗ trợ tốt nhất

Có thể bạn quan tâm