Các vấn đề pháp lý và lợi thế của thỏa thuận trọng tài thương mại

bởi Hải Đinh
Các vấn đề pháp lý và lợi thế của thỏa thuận trọng tài thương mại

Tranh chấp là việc khó tránh khỏi trong quan hệ thương mại. Nhưng để giải quyết những tranh chấp đó, hai bên cần phải lựa chọn những cách thức giải quyết khác nhau để đạt kết quả tốt nhất.Trong đó, hình thức thỏa thuận trọng tài thương mại ngày càng phố biến, đem lại hiệu quả cao. Vậy hay cùng Luật sư X tìm hiểu xem, phương thức thỏa thuân trọng tài này có những lợi thế gì? cần lưu ý về hình thức thỏa thuận? từ đó có thể giúp Anh (chị) lựa chọn được phương thức giải quyết tranh chấp một cách có hiệu quả nhất.

Thỏa thuận trọng tài là gì?

Khoản 2 Điều 3 Luật TTTM 2010 đã quy định cụ thể như sau:

          “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”.

Theo đó:

Phương thức thỏa thuận trọng tài thương mại  được hình thành dựa trên ý chí tự nguyện của các bên; có sự thống nhất giữa ý chí (mong muốn bên trong) và sự thể hiện ý chí (hình thức bên ngoài) về việc sử dụng hình thức trọng tài để giải quyết tranh chấp. Điều này được đưa ra xuất phát từ bản chất của sự thỏa thuận.

Hình thức của phương thức thỏa thuận trọng tài thương mại.

Trước hết; các bên hoàn toàn có  thể lựa chọn xác lập thỏa thuận theo điều khoản trong hợp đồng ; hoặc lựa chọn một thỏa thuận riêng độc lập với hợp đồng. Ngoài ra, tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước  hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.

Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho các bên; nhất là khi những vấn đề tranh chấp phát sinh sau khi kí kết hợp đồng mà chưa được thỏa thuận về cách giải quyết. Lúc này, các bên hoàn toàn có thể lựa chọn phương thức thỏa thuận trọng tài để giải quyết vấn đề phát sinh. Theo khoản 1 điều 16 Luật TTTM 2010 quy định:

  “Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng”

   Tiếp theo:

Khoản 2 Điều 16 LTTTM 2010 quy định thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản; như vậy nếu thỏa thuận trọng tài được xác lập thông qua lời nói sẽ không có giá trị. Các thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản.

Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram; fax; telex; thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;

b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;

c) Thỏa thuận được luật sư; công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;

d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng; chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;

đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.

Điều kiện có hiệu lực của phương thức thỏa thuận trọng tài thương mại.

Thứ nhất:

 Thỏa thuận trọng tài không nằm trong các trường hợp bị vô hiệu theo Điều 18 Luật TTTM,cụ thể :

  1. Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của trọng tài quy định tại Điều 2 của luật này.
  2. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
  3. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự.
  4. Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của luật này.
  5. Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
  6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.

Từ quy định trên, có thể thấy, để xem xét phương thức thỏa thuận trọng tài thương mại  trong trường hợp trên có hiệu lực hay không cần phải dựa vào các tiêu chí sau:

  • Về đối tượng của thỏa thuận trọng tài

Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài” quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật TTTM là trường hợp thỏa thuận trọng tài được xác lập để giải quyết tranh chấp không thuộc lĩnh vực quy định tại Điều 2 Luật TTTM;  các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của trọng tài được quy định tại điều 2 luật TTTM 2010 bao gồm :

  1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
  2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.
  3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
  •   Về thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài

Người kí kết thỏa thuận trọng tài phải là người có thẩm quyền kí kết. Theo đó “Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật” quy định tại khoản 2 Điều 18 Luật TTTM là người xác lập thỏa thuận trọng tài khi không phải là người đại diện theo pháp luật; hoặc không phải là người được ủy quyền hợp pháp hoặc là người được ủy quyền hợp pháp nhưng vượt quá phạm vi được ủy quyền.

Về nguyên tắc thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập thì thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu. Trường hợp thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập nhưng trong quá trình xác lập; thực hiện thỏa thuận trọng tài hoặc trong tố tụng trọng tài mà người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài đã chấp nhận; hoặc đã biết mà không phản đối thì thỏa thuận trọng tài không vô hiệu.

  •  Về năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài

Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự” quy định tại  khoản 3 Điều 18 Luật TTTM là người chưa thành niên; người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Trong trường hợp này; Tòa án cần thu thập chứng cứ để chứng minh người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự; phải có giấy tờ tài liệu chứng minh ngày tháng năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền; hoặc quyết định của Tòa án xác định, tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự; hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự

Như vậy, người ký kết thỏa thuận trọng tài có năng lực hành vi dân sự theo quy định tại  bộ luật dân sự 2015. Người ký kết ở đây được hiểu theo nghĩa rộng tức là bao gồm cả chủ thể của thỏa thuận trọng tài người trực tiếp ký kết thỏa thuận trọng tài.

  • Về hình  thức của thỏa thuận trọng tài:

Khoản 1 điều 16 luật TTTM 2010 quy định “ thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng “ khoản 2 điều này quy định thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản và quy định một số thỏa thuận cũng phải được lập dưới dạng văn bản .

  • Về ý chí của các bên khi  xác lập thỏa thuận trọng tài :

Các bên phải hoàn toàn  tự  nguyện khi giao kết thỏa thuận trọng tài . Theo như quy định tại khoản 5 điều 18 luật TTTM 2010 thì nếu một trong các bên bị lừa dối, đe dọa ,cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài và phải có thêm điều kiện là có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là  vô hiệu thì thỏa thuận trọng tài mới bị vô hiệu.

  •  Về nội dung của thỏa thuận trọng tài , thỏa thuận trọng tài không được vi phạm điều cấm của pháp luật.

Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định; Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”

Thứ hai:

  Thỏa thuận trọng tài không thuộc trường hợp không thể thực hiện được. 

Theo Điều 4 Nghị quyết 01/2014 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TTTM, phương thức  thỏa thuận trọng tài thương mại bị coi là không thể thực hiện được trong các trường hợp:

  1. Các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài cụ thể; nhưng Trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động màkhông có tổ chức trọng tài kế thừa; và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trung tâm trọng tài khác để giải quyết tranh chấp.
  2. Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc; nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp; hoặc Trung tâm trọng tài, Tòa án không thể tìm được Trọng tài viên như các bên thỏa thuận; và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.
  3. Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc; nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, Trọng tài viên từ chối việc được chỉ định hoặc Trung tâm trọng tài từ chối việc chỉ định Trọng tài viên và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.
  4. Các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài nhưng lại thỏa thuận áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác với Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài đã thỏa thuận và điều lệ của Trung tâm trọng tài do các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp không cho phép áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác và các bên không thỏa thuận được về việc lựa chọn Quy tắc tố tụng trọng tài thay thế.
  5. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có điều khoản về thỏa thuận trọng tài được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn quy định tại Điều 17 Luật TTTMnhưng khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng không đồng ý lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp.

  Phương thức thỏa thuận trọng tài thương mại có lợi gì hơn so với tòa án?

Có thể thấy, phương thức thỏa thuận trọng tài thương mại và tòa án tồn tại song hành; luôn có những ưu nhược điểm. Theo đó xét trên phương diện ưu điểm, phương thức thỏa thuận trọng tài thương mại có những lợi thế sau;

        Thứ nhất; Tính chuyên môn cao;  các bên tranh chấp có quyền lựa chọn trọng tài viên; việc này giúp các bên lựa chọn được trọng tài viên giỏi, nhiều kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc vấn đề đang tranh chấp. Từ đó họ có thể giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, chính xác. Trong khi đó một thẩm phán thường giải quyết tranh chấp trong nhiều lĩnh vực khác nhau .Họ không phải là những chuyên gia có trình độ cao trong tất cả các lĩnh vực.

         Thứ hai, Tính nhanh chóng; trong luật trọng tài thương mại 2010 có quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại với các cách thức khá đơn giản; chủ yếu dựa trên thỏa thuận của các bên; và đề cao sự thỏa thuận này. Các bên có thể thỏa thuận về; ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài , địa điểm giải quyết tranh chấp; đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngoài các bên có thể chọn luật áp dụng.

Đối với các nhà kinh doanh, thời gian là cực kì quan trọng. Bất kì một sự trì hoãn kéo dài nào trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại; đều sẽ ảnh hưởng tới công việc kinh doanh của họ. Qúa trình trọng tài có thể diễn ra nhanh chóng trong vòng vài tuần hay vài tháng nếu các bên muốn. Ngược lại, nếu so với tòa án; vụ việc thường kéo dài bởi hệ thống tòa án được tổ chức theo các cấp xét xử và thủ tục tư pháp phức tạp.

           Thứ ba, Tính bí mật; do đặc thù về công việc, liên quan đến các vấn đề cạnh tranh; mức độ bảo mật trình tự tố tụng trong từng vụ việc; giải quyết tranh chấp bằng trọng tài luôn có khả năng giữ bí mật rất cao.

Khi tranh chấp xảy ra, những bí mật đó có khả năng có thể bị tiết lộ; nhất là khi giải quyết tại tòa án bởi nguyên tắc xét xử tại tòa án là công khai. Hội đồng trọng tài được thành lập để xét sử tranh chấp theo cách xét  xử kín tách rời khỏi sự chú ý của công luận.

Đây có thể được xem là một ưu thế so với nguyên tắc xét xử công khai của tòa án; trong trường hợp giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thương mại, có thể xem là khá nhạy cảm. Và qua đó, góp phần bảo vệ danh dự, uy tín của các bên tranh chấp.

           Thứ tư, về thể loại tranh chấp được giải quyết; khác với tòa án là chỉ giải quyết các tranh chấp pháp lý; trọng tài không những giải quyết tranh chấp pháp lý mà còn giải quyết tranh chấp chính trị.

Vì vậy; Phán quyết của trọng tài có thể không mang tính đối nghịch như phán quyết của tòa án quốc tế. Trước khi đem vụ tranh chấp thương mại để giải quyết bằng trọng tài; các bên có thể cùng ngồi bàn bạc, nêu ra ý chí nguyện vọng chủ quan của mình; từ đó xây dựng được những thỏa thuận chung nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của đôi bên trong quá trình tố tụng trọng tài; và chính vì sự trao đổi trên cơ sở tôn trọng mong muốn của nhau; nên sau khi có phán quyết của trọng tài; các bên vẫn có thể tiếp tục giữ được mối quan hệ với nhau kể cả trong lĩnh vực vừa xảy ra tranh chấp.

         Thứ năm, tính chung thẩm, sau khi trọng tài đưa ra phán quyết thì phán quyết đó bắt buộc có hiệu lực thi hành với các bên, các bên không có quyền kháng cáo hay kháng nghị.

Đây là điểm khác biệt cũng là ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài so với tòa án. Như vậy, có thể tránh dẫn đến tình trạng dây dưa kéo dài; gây tốn kém cả về thời gian lẫn tiền bạc; ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh.

            Thứ sáu, về khả năng kiểm soát hoạt động tố tụng; trình tự trọng tài do các bên tự quy định; vì thế khả năng kiểm soát hoạt động trọng tài của các bên rộng hơn. Bên cạnh đó, trọng tài khi giải quyết tranh chấp nhân danh ý chí của các bên; không nhân danh quyền lực tự pháp của nhà nước; hơn thế nữa. phán quyết trọng tài được sự công nhận quốc tế; nên rất phù hợp để giải quyết các tranh chấp có nhân tố nước ngoài.

Hạn chế của phương thức thỏa thuận trọng tài thương mại

Bên cạnh những lợi thế vốn có,phương thức thỏa thuận trọng tài thương mại thường có những hạn chế sau;

            Thứ nhất; phán quyết của trọng tài có thể bị tuyên hủy bởi quyết định của tòa án. Vì vậy nó làm hạn chế hiệu lực của phán quyết trọng tài; cũng như giảm sự tin cậy vào cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.

            Thứ hai; việc thực hiện các quyết định của trọng tài hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức tự nguyện của các bên. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài; uy tín của doanh nghiệp được đặt lên hàng đầu; do đó việc họ tự giác thực hiện các quyết định của trọng tài khá cao.

Tuy nhiên; các doanh nghiệp trong nước hiện nay vẫn chưa coi trọng việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài; nên vẫn chưa có ý thức tự giác.

             Thứ ba; việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp trọng tài mang tính chất phi chính phủ; nên khi hiểu biết của một bộ phận dân trí về biện pháp này chưa cao có thể dẫn dến sự thiếu tin tưởng về khả năng; hiệu quả công việc; giá trị pháp lí của phán quyết trọng tài cũng như tạo tâm lý e dè; khi các bên xem xét lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng biện pháp này.

              Thứ tư; về chi phí, trong thực tiễn tình hình nước ta hiện nay; chi phí cho việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại bằng biện pháp trọng tài còn khá lớn; dẫn đến việc các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng chi trả.

              Thứ năm; quyết định của trọng tài có giá trị chung thẩm; mặc dù đây là điểm tạo nên hiệu lực cho phán quyết trọng tài; song cũng đồng thời hạn chế cơ hội sửa chữa khi xảy ra sai sót; dẫn đến việc không đảm bảo trọn vẹn quyền và nghĩa vụ cho các bên tranh chấp.

Có nên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại?

Từ những ưu nhược điểm của thỏa thuận trọng tài thương mại, có thể thấy rằng; các bên trong quan hệ thương mại nên sử dụng phương thức này để giải quyết tranh chấp.

Mục đích suy cho cùng, các bên mong muốn đạt được những lợi ích thỏa đáng  cho mình. Với phương thức này;

  • Các bên có thể đạt được mục đích bởi khả năng chuyên môn cao của hội đồng trọng tài.
  • Thủ tục giải quyết nhanh chóng tiết kiệm được thời gian.
  • Có thể đảm bảo được cơ hội phát triển của mình do có tính bảo mật cao; những tranh chấp, sai xót của các bên hoàn toàn có thể được giữ kín.

Ví dụ; một doanh nghiệp sẽ không chắc chắn có thể quay lại thị trường; thu hút khách hàng được như trước không; trong trường hợp tranh chấp được giải quyết công khai bởi tòa án. Lúc này những thiếu xót, gian lận phát sinh trong các giao dịch  bị đông đảo công chúng biết đến. Uy tín, thương hiệu bị suy giảm, ảnh hưởng đến khả năng kinh doanh, tiếp cận thị trường.

Ngược lại với tòa án,  từ đặc điểm bảo mật, không công khai của trọng tài; doanh nghiệp hoàn toàn có thể đạt được sự công bằng thỏa đáng quyền; lợi ích của mình trong tranh chấp. Đồng thời hoạt động kinh doanh; uy tín diễn ra bình thường, không bị ảnh hưởng bởi tranh chấp phát sinh.

Hy vọng bài viết sẽ giúp ích cho bạn đọc. Hãy liên hệ khi có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư hôn nhân của luật sư X:  0833 102 102

Câu hỏi thương gặp

[sc_fs_multi_faq headline-0=”h4″ question-0=”thỏa thuận trọng tài thương mại theo quy định pháp luật Việt Nam có được xác lập dưới hình thức lời nói?” answer-0=”Hình thức thỏa thuận trọng tài theo quy định pháp luật Việt Nam không thể xác lập dưới dạng lời nói.” image-0=”” headline-1=”h4″ question-1=”sau khi phát sinh tranh chấp mới thỏa thuận trọng tài thương mại có được không?” answer-1=”có thể thỏa thuận trọng tài thương mại sau khi đã phát sinh tranh chấp” image-1=”” headline-2=”h4″ question-2=”Tranh chấp giải quyết ở tòa án hay trọng tài thương mại sẽ cao hơn?” answer-2=”thông thường, chi phí do trọng tài thương mại giải quyết tranh chấp sẽ cao hơn so tòa án.” image-2=”” count=”3″ html=”true” css_class=””]

Bình chọn bài viết

Liên hệ để được hỗ trợ tốt nhất

Có thể bạn quan tâm