Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai được xác lập từ thời xa xưa. Hiện nay, chế độ này vẫn được duy trì ở Việt Nam chỉ có Nhà nước là đại diện thực hiện các quyền của chủ sở hữu. Vậy chế độ sở hữu toàn dân về đất đai được xác lập khi nào? Hãy theo dõi bài viết dưới đây của Luật sư X để biết thêm thông tin nhé!
Căn cứ pháp lý
Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai được xác lập khi nào?
Mặc dù các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định rằng việc tiến hành quốc hữu hoá đất đai là một tất yếu khách quan. Song các ông cũng chỉ ra rằng không thể xoá bỏ ngay lập tức chế độ tư hữu về ruộng đất; việc xoá bỏ chế độ này phải là một quá trình lâu dài.
Theo Ph. Ăngghen: “Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không? Trả lời: Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo”.
Quan điểm thu hồi hết ruộng đất của đế quốc, phong kiến làm của công, thực hiện quyền ruộng đất về Nhà nước (cấm mua, bán ruộng đất) là tiền đề quan trọng và là nền tảng của chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai ở nước ta trong giai đoạn này;
- Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền nhân dân tuyên bố bãi bỏ các luật lệ về ruộng đất của chế độ cũ;
- Năm 1946, Hồ Chủ tịch kí sắc lệnh về giảm tô; bãi bỏ thuế thổ trạch ở thôn quê;
- Năm 1953, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thông qua Luật cải cách ruộng đất, tịch thu ruộng đất của địa chủ, phong kiến, cường hào… chia cho nông dân, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”;
- Tiếp đó, Hiến pháp năm 1959 quy định: “Nhà nước chiểu theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đẩt và các tư liệu sản xuất khác của nông dân…” (Điều 14);
- Trong những năm 1960, miền Bắc thực hiện phong trào “hợp tác hoá” vận động nông dân đóng góp ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác vào làm ăn tập thể trong các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, ở giai đoạn này, Hơn nữa, hiện nay trong điều kiện nước ta “mở cửa”, chủ động hội nhập từng bước vững chắc vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu thì việc xác lập hình thức sở hữu toàn dân về đất đai là một trong những phương thức nhằm góp phần củng cố và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Về phương diện lịch sử, ở nước ta hình thức sở hữu nhà nước về đất đai (đại diện là nhà vua ở các nhà nước phong kiến) đã xuất hiện từ rất sớm và tồn tại trong suốt chiều đài lịch sử phát triển của dân tộc. Sự ra đời hình thức sở hữu đất đai này xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm giành và giữ nền độc lập dân tộc.
Đạo lý của việc bảo vệ, giữ gìn từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc chính là bảo vệ chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia chống lại mọi hình thức xâm lược của ngoại bang. Mặt khác, việc xác định và tuyên bố đất đai thuộc về Nhà nước mà đại diện là nhà vua còn mang ý nghĩa khẳng định chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt đối với các nước láng giềng và với các nước khác trên thế giới.
Ở khía cạnh khác, nghề trồng lúa nước ra đời và tồn tại hàng nghìn năm ở nước ta và được sử dụng hợp lý bảo đảm nuôi sống nói chung, bảo đảm thoả mãn các nhu cầu đa dạng của xã hội nói riêng đổi với đất đai. Bên cạnh đó, trong giai đoạn đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước hiện nay thì việc xác lập hình thức sở hữu toàn dân về đất đai sẽ tạo ưu thế và thuận lợi cho Nhà nước trong việc sử dụng đất cho các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích chung của toàn xã hội.
Cơ sở lý luận của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai
Sự cần thiết của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai
Thứ nhất, đất đai là tài nguyên thiên nhiên, không ai có quyền chiếm hữu đất cho riêng mình. Chúng ta chỉ có quyền sử dụng đất hợp lý và không ngừng cải tạo đất để dành lại đất đai cho thế hệ sau.
Thứ hai, duy trì hình thức quốc hữu về đất đai sẽ làm giảm nguy cơ manh mún và kiệt quệ đất, tạo điều kiện để canh tác, sản xuất đạt quy mô, tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.
Thứ ba,chủ nghĩa, Các Mác và sau đó là V.I.Lênin đã chỉ ra tính chất vô lý của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, nguồn gốc đẻ ra địa tô, nên đã chủ trương phải quốc hữu hoá đất đai, xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về đất đai.
Thứ tư, chế độ tư hữu về đất đai làm gia tăng sự bất bình đẳng trong xã hội, gia tăng sự chênh lệch giàu nghèo. Do đó, “quốc hữu hóa đất đai là một quy luật tất yếu khách quan đối với bất kỳ nước nào làm cách mạng vô sản”.
Cơ sở thực tiễn
Về mặt chính trị: việc xác lập hình thức sở hữu toàn dân về đất đai là một trong những phương thức nhằm góp phần củng cố và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Bên cạnh đó, xuất phát từ định hướng XHCN, lập trường "tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân", thì nhân dân phải là chủ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đặc biệt quý giá của quốc gia là đất đai.
Về kinh tế – xã hội: đất đai trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nó vẫn phải vận động theo quy luật khách quan cần có chủ thể sản xuất và trao đổi cụ thể. Nếu không thì quan hệ sở hữu cũng bị biến dạng, lực lượng sản xuất không thể phát triển được. Cho nên, ở Việt Nam, tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất để sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn.
Về mặt lịch sử: Ở nước ta hình thức sở hữu nhà nước về đất đai đã xuất hiện từ khá sớm trong suốt chiều dài phát triển lịch sử của dân tộc, có vai trò to lớn trong quá trình xây dựng, phát triển, gìn giữ và bảo vệ đất nước khỏi thiên tai, các thế lực thù địch.
Về thực tế: các quan hệ về quản lý và sử dụng đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí đã ổn định trong một thời gian khá dài (từ năm 1980 cho tới nay), nên việc thay đổi hình thức sở hữu đất đai sẽ dẫn tới nhiều sự xáo trộn trong lĩnh vực đất đai, có thể dẫn tới cả sự mất ổn định về tình hình chính trị – xã hội.
Ưu nhược điểm của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai là gì?
Ưu điểm của chế độ sở hữu toàn dân
Thứ nhất là sự thể hiện đúng bản chất của đất đai là không của riêng ai mà nó là tạo hóa của thiên nhiên.
Thứ hai là chế độ này phù hợp với quan điểm chính trị của quốc gia: “Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân“. Bởi lẽ để có được đất đai như ngày hôm nay là nhờ thành công giữ nước dựng nước của cả dân tộc, chính vì lẽ đó đất đai sẽ không thuộc chủ quyền của bất kì cá nhân nào mà mà thuộc sở hữu chung của toàn dân và sử dụng nhằm mục đích chung của toàn dân tộc.
Thứ ba, ngoài phù hợp với quan điểm chính trị của quốc gia, quan điểm này còn phù hợp với quá trình phát triển kinh tế xã hội hiện tại là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, quá trình này đòi hỏi chuyển một diện tích đất nông nghiệp sang đất sử dụng cho mục đích phi nông nghiệp. Và với vấn đề này cần đòi hỏi có sự giúp sức của nhà nước để làm việc với dân dễ dàng hơn.
Cuối cùng là chế độ này tạo điều kiện để những người lao động có cơ hội tiếp cận với đất đai tự do hơn. Người lao động được hưởng lợi ích từ đất một cách có lợi, công bằng và bình đẳng hơn.
Nhược điểm của chế độ sở hữu toàn dân
Bên cạnh những mặt tích cực của ưu điểm, chế độ toàn dân về đất đai vẫn còn tồn tại những điểm còn hạn chế, bất cập như sau:
Thứ nhất, vì như ở trên đề cập thì đất đai thuộc sở hữu của toàn dân chứ không của riêng ai dó đó nhiều người không có động lực, ý thức để đầu tư và phát triển nó một cách nghiêm túc.
Thứ hai, hiện nay, quyền định đoạt đất đai thuộc về quyết định của cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương nên việc lạm dụng quyền hạn can thiệp vào các vấn đề như: thu hồi đất, bồi thường với giá rẻ,… là điều khó tránh khỏi. Từ đó, việc tham nhũng, lạm quyền là điều tất yếu.
Thứ ba, là sự bất cập của các quy định pháp luật. Hiện tại, các quy định pháp luật còn chồng chéo, gây khó hiểu từ định nghĩa thế nào là sở hữu toàn dân, định nghĩa chưa rõ ràng, mông lung dẫn đến việc áp dụng gặp nhiều khó khăn.
Mời bạn xem thêm
- Các trường hợp phải đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định mới
- Quy trình đấu giá quyền sử dụng đất mới hiện nay
- Thủ tục bố mẹ cho tặng con quyền sử dụng đất như thế nào?
Thông tin liên hệ
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của Luật Sư X liên quan đến “Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai được xác lập khi nào?”. Quý khách hàng có nhu cầu tìm hiểu về cách nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hồ sơ vay vốn ngân hàng cho doanh nghiệp, hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, dịch vụ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, các thủ tục thành lập công ty hoặc muốn sử dụng dịch vụ đăng ký tạm ngừng kinh doanh qua mạng;…quý khách hàng vui lòng liên hệ đến hotline : 0833.102.102 để được nhận tư vấn.
Câu hỏi thường gặp
Chế độ sở hữu toàn dân là Chế độ sở hữu gồm tổng thể các quy phạm pháp luật xác định chủ thể, khách thể, nội dung, phương thức thực hiện quyền sở hữu của toàn dân. Sở hữu toàn dân là hình thức cao nhất của sở hữu xã hội chủ nghĩa, trong đó các tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, các phương tiện và tài sản khác thuộc về nhà nước – người đại diện chính thức của nhân dân.
Bên cạnh đó, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai là một khái niệm pháp lý gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ sở hữu đất đai trong đó xác nhận, quy định và bảo vệ quyền đại diện chủ sở hữu của Nhà nước trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt.
Với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thực hiện quyền định đoạt đất đai. Hay nói cách khác, Nhà nước là chủ thể đại diện của quyền sở hữu toàn dân về đất đai. Quyền sở hữu đại diện của Nhà nước mang tính chất duy nhất và tuyệt đối.
– Tính duy nhất thể hiện, pháp luật không cho phép tồn tại bất cứ hình thức sở hữu nào khác ngoài hình thức sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước là người đại diện. Điều này có nghĩa là đất đai luôn thuộc về chủ thể nhất định là Nhà nước và pháp luật không cho phép có bất kì một hành vi nào xâm phạm quyền định đoạt đất đai của Nhà nước
– Tính tuyệt đối thể hiện, toàn bộ vốn đất đai trong phạm vi cả nước dù đã được giao hay chưa được giao cho bất kì tổ chức, cá nhân nào sử dụng đều thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lí. Hơn nữa, dù đất đai do bất cứ ai sử dụng và sử dụng vào bất kì mục đích gì thì cũng đều phải tuân thủ các quy định của Nhà nước.
Khách thể của quyền sở hữu toàn dân về đất đai là toàn bộ vốn đất đai nằm trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, bao gồm đất liền, hải đảo và lãnh hải.