“Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư” – Đó là một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp được xác định tại Nghị quyết số 49-NQ-TW, ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” để hướng tới mục tiêu: Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Thực hiện Nghị quyết 49-NQ-TW, Luật Luật sư được ban hành năm 2006 và Liên đoàn Luật sư Việt Nam được thành lập năm 2009 là những dấu mốc quan trọng về thể chế thể hiện sự quan tâm và quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta đối với việc hoàn thiện và phát triển đội ngũ Luật sư Việt Nam trong công cuộc xây dựng, hoàn thiện pháp luật, cải cách tư pháp, phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Luật Luật sư năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2012) với những quy định chặt chẽ, toàn diện về nguyên tắc, điều kiện, phạm vi hành nghề, đào tạo, cấp chứng chỉ và quản lý luật sư, hoạt động luật sư ở nước ta đã có những chuyển biến tích cực và dần dần tạo được uy tín trong xã hội. Tuy nhiên, những hiệu quả đạt được chưa theo kịp với sự phát triển của xã hội và chưa làm thay đổi được thực trạng hạn chế của đội ngũ luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư để luật sư thực sự là địa chỉ tin cậy cho cá nhân, tổ chức khi có vướng mắc đến pháp luật. Theo đánh giá của các chuyên gia, có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng vị trí, vai trò của luật sư chưa được đề cao trong xã hội, trong đó những bất cập của hệ thống pháp luật và hạn chế của bản thân các luật sư là những nguyên nhân chính. Đó là: Bộ luật Tố tụng Hình sự chưa xác định rõ địa vị pháp lý của luật sư trong các giai đoạn tố tụng, đặc biệt là quyền của luật sư trong việc tiếp xúc hồ sơ, bị can, bị cáo, thu thập chứng cứ trong giai đoạn khởi tố, điều tra, xét xử. Các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, đào tạo, tập sự và công nhận luật sư vẫn còn không ít bất cập, hạn chế nên chưa phân loại được luật sư và chưa tạo được tính chuyên nghiệp cho luật sư. Ý thức tự đào tạo và bồi dưỡng về chuyên môn, kỹ năng hành nghề, đạo đức nghề nghiệp và ứng xử của một bộ phận luật sư còn thấp đã làm ảnh hưởng đến chất lượng bào chữa, tư vấn, đại diện của luật sư, và nghiêm trọng hơn là vi phạm các nguyên tắc hành nghề luật sư.
Trong thời gian qua, các cấp, các ngành đã không ngừng nỗ lực nhằm tìm ra các giải pháp để cải thiện tình hình chất lượng luật sư ở Việt Nam. Các cuộc khảo sát, điều tra cả trong nước và nước ngoài đều cho thấy rằng những định hướng, chính sách về chiến lược phát triển đội ngũ luật sư ở Việt Nam đang tiến gần hơn với thế giới, đặc biệt trong cơ chế đào tạo, bồi dưỡng và công nhận luật sư. Thế nhưng, chất lượng của luật sư Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu luôn là vấn đề mà các nhà quản lý quan tâm. Liệu việc hoàn thiện các chế định về vai trò, vị trí của luật sư có làm thay đổi chất lượng dịch vụ mà họ cung cấp cho khách hàng? Theo quan điểm của tác giả, thì để nâng cao vai trò, vị trí của luật sư, bên cạnh việc hoàn thiện thể chế, trước hết luật sư phải tự khẳng định chất lượng dịch vụ pháp lý do mình cung cấp để tự xây dựng uy tín với khách hàng và làm thay đổi nhận thức, thái độ của cơ quan tiến hành tố tụng đối với hoạt động nghề nghiệp của mình. Để làm được điều này bên cạnh sự nỗ lực của các luật sư cần phải có sự chung tay của tổ chức đào tạo luật sư và các cơ quan quản lý trong việc đào tạo và nâng cao tính chuyên nghiệp trong hành nghề cho luật sư. Có mấy vấn đề cần được lưu ý như sau:
Thứ nhất, luật sư nên được đào tạo tính chuyên nghiệp ngay từ khi đang là sinh viên tại các trường đại học luật thông qua việc định hướng nghề nghiệp và đào tạo kỹ năng hành nghề. Ở Việt Nam, các trường luật không có chương trình đào tạo sinh viên để trở thành luật sư, các sinh viên luật được học chung một chương trình và chủ yếu tập trung vào lý thuyết, các khái niệm pháp luật cơ bản. Sau khi ra trường, sinh viên muốn hành nghề luật sư thì phải tham gia khóa đào tạo hành nghề luật sư trong thời gian mười hai tháng tại các cơ sở đào tạo hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật, sau đó trải qua một thời gian tập sự tại các tổ chức hành nghề luật sư. Để được công nhận luật sư chính thức, sau khi kết thúc thời gian tập sự theo quy định, luật sư tập sư phải trải qua kỳ kiểm tra do Bộ Tư pháp tổ chức và chỉ được cấp Chứng chỉ hành nghề nếu đạt yêu cầu. Về cơ bản, quy trình đào tạo và công nhận luật sư chính thức ở Việt Nam cũng gần giống với nhiều nước khác trên thế giới, tuy nhiên khác với Việt Nam, ở các nước có nghề luật sư phát triển thường không có cơ sở đào tạo hành nghề luật sư như Học viện Tư pháp của Việt Nam mà sinh viên luật sẽ được nhà trường định hướng nghề nghiệp và đào tạo kỹ năng hành nghề ngay tại trường đại học. Trong thời gian đầu, sinh viên sẽ được thực hành bằng các tình huống cụ thể dưới sự hướng dẫn của giảng viên, việc đưa ra các quan điểm, lý luận sẽ được giảng viên đánh giá, nhận xét. Những năm cuối, sinh viên sẽ được tiếp xúc trực tiếp với các vụ án, tình huống thực tế dưới sự hướng dẫn của giảng viên hoặc luật sư. Chính vì được định hướng nghề nghiệp và đào tạo kỹ năng hành nghề khi còn là sinh viên nên đã tạo động lực cho các luật sư tương lai phấn đấu nỗ lực trong học tập, nghiên cứu các chế định pháp luật và các vụ án, tình huống để tích lũy kiến thức, kỹ năng làm nền tảng cho việc hành nghề sau này. Điều đó lý giải tại sao quy trình đào tạo và công nhận luật sư giữa Việt Nam và các nước có nhiều nét tương đồng nhưng nhiều luật sư ở nước ngoài sau khi kết thúc thời gian tập sự có thể tham gia bào chữa, tư vấn một cách độc lập và hiệu quả, trong khi đó, rất nhiều luật sư ở Việt Nam sau khi kết thúc thời gian tập sự khó có thể độc lập nghiên cứu hồ sơ, tình huống, đưa ra được luận cứ thuyết phục hay tư vấn hiệu quả cho khách hàng.
Thực tế trên cho thấy Việt Nam cần phải có sự thay đổi mạnh mẽ trong đào tạo luật sư, trong đó cần xác định xây dựng tính chuyên nghiệp cho luật sư thông qua định hướng nghề nghiệp và đào tạo kỹ năng hành nghề cho luật sư trong thời gian học tại trường đại học luật là giải pháp quan trọng để thay đổi thực trạng của đội ngũ luật sư. Đào tạo tính chuyên nghiệp tại trường học không phải là vấn đề đơn giản bởi nó cần sự nỗ lực của cả giáo viên và sinh viên, tuy nhiên nếu có sự đồng hành của cơ quan tiến hành tố tụng, tổ chức hành nghề luật sư thì việc tiếp cận các tình huống cụ thể để nâng cao kỹ năng hành nghề và kiến thức pháp luật cho sinh viên không phải là vấn đề quá khó khăn.
Thứ hai, luật sư nên được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ thường xuyên. Xã hội nước ta đang không ngừng thay đổi và phát triển, các mối quan hệ xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp và được điều chỉnh bằng pháp luật, các văn bản quy phạm phạm pháp luật ngày càng nhiều hơn. Do vậy, cập nhật kiến thức pháp luật mới và nâng cao kỹ năng hành nghề là một yêu cầu tất yếu đối với luật sư. Tuy nhiên, vấn đề này đã bị bỏ ngõ trong một thời gian dài, góp phần tạo nên thực trạng hạn chế của đội ngũ luật sư Việt Nam như hiện nay. Việc quy định bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ là một nghĩa vụ bắt buộc của Luật sư được coi là sự cải cách mới trong Luật Luật sư và Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư. Để thực thi yêu cầu này, Bộ Tư pháp đang dự thảo Thông tư hướng dẫn nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ của luật sư, với mục đích nhằm cập nhật đầy đủ, kịp thời kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề và đạo đức nghề nghiệp của luật sư, xã hội đang mong chờ sự thay đổi đáng kể về chất lượng dịch vụ do luật sư cung cấp trong tương lai. Vấn đề được đặt ra với cơ quan quản lý là làm thế nào để các quy định về bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ không mang tính hình thức. Theo quan điểm của tác giả, dự thảo Thông tư nên quy định tất cả luật sư bắt buộc phải tham gia lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ do các tổ chức trong nước thực hiện mà không được lựa chọn các hình thức thay thế khác. Bởi vì, việc cập nhật các quy phạm pháp luật mới là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi luật sư mà không phân biệt trình độ chuyên môn, kinh nghiệm hay thâm niên nghề nghiệp. Một luật sư mới hành nghề hay luật sư đã hành nghề trên mười hay hai mươi năm thì những quy định mới đối với họ đều được coi là kiến thức pháp luật mới và cần được cập nhật. Việc luật sư tham gia giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật hoặc tham gia các khóa bồi dưỡng về luật sư và hành nghề luật sư ở nước ngoài có thể là môi trường tốt để họ tích lũy kinh nghiệm nhưng không thể là một hình thức giúp họ cập nhật kiến thức pháp luật mới của Việt Nam. Ngoài ra, luật sư cũng có thể lựa chọn hình thức cập nhật khác như nghiên cứu văn bản luật, trao đổi với các đồng nghiệp…Tuy nhiên, do thực trạng ý thức tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của nhiều luật sư chưa cao nên việc tự bồi dưỡng của luật sư khó có thể đạt hiệu quả. Vì vậy, bắt buộc luật sư tham gia lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ do tổ chức trong nước thực hiện sẽ là hình thức phù hợp nhất với thực tế hiện nay. Ngoài ra, việc mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nên thực hiện theo nhu cầu của luật sư, điều này có nghĩa là các luật sư sẽ đăng ký với cơ sở thực hiện bồi dưỡng các lĩnh vực mà họ có nhu cầu, trên cơ sở đó các tổ chức thực hiện bồi dưỡng sẽ mở lớp theo chuyên đề như hình sự, dân sự, kinh tế, thương mại…Cách thức bồi dưỡng này không những đảm bảo việc bồi dưỡng đúng trọng tâm, trọng điểm mà sẽ hỗ trợ để luật sư nâng cao kiến thức, kỹ năng trong các lĩnh vực họ còn hạn chế, đồng thời giúp luật sư có điều kiện phát triển chuyên sâu các lĩnh vực theo nhu cầu nghề nghiệp của mỗi luật sư.
Thứ ba, tính chuyên nghiệp của luật sư thường được thể hiện rõ bằng hiệu quả công việc, tuy nhiên tư cách và thái độ ứng xử của luật sư cũng thể hiện khả năng chuyên nghiệp của họ. Do vậy, mọi luật sư nên được bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp thường xuyên mà không nên phân biệt trình độ, năng lực hay thâm niêm nghề nghiệp. Bởi vì thực tiễn cho thấy một số luật sư vi phạm pháp luật, vi phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp cũng là những luật sư có trình độ và kinh nghiệm hành nghề lâu năm. Một luật sư được bồi dưỡng thường xuyên về đạo đức nghề nghiệp nhất định sẽ thực hiện tốt vai trò của mình trong việc bảo vệ lợi ích của khách hàng, bảo vệ công lý và nhà nước pháp quyền.