Quốc tịch không chỉ đơn thuần là một loại giấy tờ xác định nguồn gốc quốc gia của một cá nhân, mà còn là một mối liên hệ pháp lý sâu sắc giữa cá nhân và nhà nước. Nó thể hiện một tầm quan trọng vô cùng đặc biệt trong việc định hình quyền và nghĩa vụ của người dân đối với hệ thống pháp luật của quốc gia mà họ thuộc về. Quốc tịch đóng vai trò quan trọng trong việc xác định quyền và trách nhiệm của mỗi công dân, đồng thời bảo đảm rằng các quyền này sẽ được bảo vệ và thực hiện một cách công bằng và đồng đều. Mời bạn đọc tham khảo Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 tại bài viết sau.
Tình trạng pháp lý
Số hiệu: | 24/2008/QH12 | Loại văn bản: | Luật | |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Phú Trọng | |
Ngày ban hành: | 13/11/2008 | Ngày hiệu lực: | 01/07/2009 | |
Ngày công báo: | 12/03/2009 | Số công báo: | Từ số 145 đến số 146 | |
Tình trạng: | Còn hiệu lực |
Nội dung nổi bật trong Luật Quốc tịch Việt Nam 2008
Quốc tịch, trong bản chất của nó, không chỉ đơn thuần là một văn bản tùy ý, mà là một phạm trù chính trị và pháp lý cốt lõi, thể hiện mối quan hệ gắn bó sâu sắc và bền vững giữa Nhà nước và cá nhân. Quốc tịch không chỉ là một tập hợp các chữ và số trên một giấy tờ, mà còn là nền tảng vững chắc định rõ danh tính công dân và quyền hạn của họ trong một xã hội được quy định bởi luật pháp. Nội dung nổi bật trong Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 như sau:
Cùng với việc khẳng định mọi cá nhân ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều có quyền có quốc tịch (Điều 2), Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 tiếp tục khẳng định nguyên tắc một quốc tịch đã được ghi nhận trong Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988 và tại điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998.Việc làm này nhằm để đảm bảo tính xuyên suốt, truyền thống của nguyên tắc một quốc tịch, đồng thời khắc phục những mâu thuẫn trong Luật hiện hành, giải quyết được những vướng mắc trong thực tiễn. Chính vì vậy, so với 2 bộ luật trước, Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 có sự khác biệt cơ bản là : Nếu như luật quốc tịch năm 1988 và 1998 được xây dựng trên nguyên tăc một quốc tịch triệt để thì Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 được xây dựng trên nguyên tắc một quốc tịch mềm dẻo.
Điều 4. Nguyên tắc quốc tịch
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp luật này có quy định khác.
So sánh với nguyên tắc “Công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch Việt Nam” của Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam.”(Điều 3) và “ Nguyên tắc một quốc tịch” của Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam” (Điều 3), có thể thấy nguyên tắc quốc tịch năm 2008 có sự mềm dẻo hơn rất nhiều.
Về mặt hình thức, nếu như ở Luật năm 1988 có ghi rõ ràng là “Công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch Việt Nam” thì đến Luật năm 1998 có sửa đổi thành “Nguyên tắc một quốc tịch” và đến năm 2008 thì đã bỏ từ “một” chỉ còn “Nguyên tắc quốc tịch”.
Về mặt nội dung, ngoài nội dung cơ bản đã quy định trong Luật quốc tịch 1998 : “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”, Luật năm 2008 còn bổ sung thêm “trừ trường hợp Luật này có quy định khác”. Như vậy, Luật năm 1998 không quy định về các trường hợp ngoại lệ có thể có hai quốc tịch (mặc dù trên thực tế vẫn có nhiều trường hợp được mang hai quốc tịch) thì đến Luật năm 2008 đã quy định rõ những trường hợp này. Những trường hợp ngoại lệ có thể có hai quốc tịch là những trường hợp được Chủ tịch nước cho phép giữ quốc tịch nước ngoài khi được nhập quốc tịch Việt Nam (khoản 3 Điều 19), được trở lại quốc tịch Việt Nam (khoản 5 Điều 23); trường hợp quốc tịch của trẻ em là con nuôi (Điều 37) và trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã nhập quốc tịch nước ngoài nhưng vẫn có nguyện vọng giữ quốc tịch Việt Nam (khoản 2 Điều 13).
Việc khẳng định một số ngoại lệ có thể có hai quốc tịch không có nghĩa là từ bỏ nguyên tắc một quốc tịch mà chỉ là sửa đổi nguyên tắc này cho mềm dẻo hơn, phù hợp với chính sách của Nhà nước ta về hội nhập quốc tế, đại đoàn kết dân tộc và chính sách đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Có thể nói vậy là bởi trong Luật năm 2008 vẫn quy định những điều kiện cụ thể nhằm hạn chế tình trạng hai hay nhiều quốc tịch như sau:
– Thứ nhất, khi quy định các điều điều kiện để nhập quốc tịch Việt Nam, khoản 3 điều 19 nêu rõ : “ Người nhập quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài, trừ những quy định tại khoản 2 Điều này, trong trường hợp đặc biệt, nếu được Chủ tịch nước cho phép”. Điều đó có nghĩa, về nguyên tắc, công dân nước ngoài khi nhập quốc tịch Việt Nam thì buộc phải từ bỏ quốc tịch nước ngoài. Trừ những trường được quy định tại khoản 2 điều 19 ( a)“Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ để hoặc con đẻ của công dân Việt Nam”, b) “Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam”; c) “Có lợi cho nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”) hay trường hợp đặc biệt được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phép, người đó mới được giữ quốc tịch nước ngoài. Trong luật năm 1998 chỉ cho phép giữ quốc tịch nước ngoài với trường hợp có tính chất đặc biệt được Chủ tịch nước cho phép. Điều đó cho thấy tính chất mềm dẻo mà vẫn đảm bảo nguyên tắc một quốc tịch của Luật năm 2008.
– Thứ hai, Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 cũng quy định cụ thể những trường hợp mặc nhiên mất quốc tịch Việt Nam. Đó là: Trường hợp trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em dưới 15 tuổi (được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai thì đương nhiên có quốc tịch Việt Nam) nếu tìm thấy cha mẹ mà cha mẹ chỉ có quốc tịch nước ngoài hoặc chỉ tìm thấy cha hoặc mẹ mà người đó chỉ có quốc tịch nước ngoài thì đứa trẻ đó đương nhiên mất quốc tịch Việt Nam (Điều 18); Trường hợp cả cha và mẹ có sự thay đổi quốc tịch do được thôi quốc tịch Việt Nam thì con chưa thành niên sinh sống cùng cha mẹ cũng được thay đổi theo quốc tịch của họ, tức là mặc nhiên mất quốc tịch Việt Nam (Khoản 1 Điều 35).
Bên cạnh đó, do công nhận thực trạng một số công dân có hai hay nhiều quốc tịch nên Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã bổ sung thêm 1 điều quy định về việc giải quyết vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài. Theo quy định tại Điều 12, vấn đề phát sinh từ tình trạng trên được giải quyết theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trường hợp chưa có điều ước quốc tế thì được giải quyết theo tập quán và thông lệ quốc tế. Điều 12 cũng xác định nhiệm vụ của Chính phủ là kí kết hoặc đề xuất việc kí kết, quyết định gia nhập điều ước quốc tế để giải quyết vấn đề phát sịnh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài. Một số điều ước quốc tế đa phương về vấn đề quốc tịch như Công ước La Haye năm 1930 về một số vấn đề xung đột quốc tịch, công ước năm 1963 về việc giảm các trường hợp nhiều quốc tịch và về nghĩa vụ quân sự trong trường hợp nhiều quốc tịch, Công ước châu Âu năm 1997 về quốc tịch.
Tải xuống Luật Quốc tịch Việt Nam 2008
Quốc tịch không chỉ là một văn bản hình thức, mà là sợi dây liên kết mạnh mẽ giữa Nhà nước và công dân, định rõ quyền và nghĩa vụ của mỗi cá nhân trong xã hội và đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và tích cực của hệ thống chính trị và pháp lý. Tải xuống Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 ngay tại đây
Thông tin liên hệ:
Vấn đề “Luật Quốc tịch Việt Nam 2008” đã được LSX giải đáp thắc mắc ở bên trên. Với hệ thống công ty LSX chuyên cung cấp dịch vụ pháp lý trên toàn quốc. Với đội ngũ luật sư, chuyên viên, chuyên gia dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ giúp quý khách giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm chi phí và ít đi lại. Chi tiết vui lòng liên hệ tới hotline: 0833102102
Câu hỏi thường gặp
Theo Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 quy định về điều kiện xin nhập quốc tịch Việt Nam như sau:
(1) Công dân nước ngoài và người không quốc tịch đang thường trú ở Việt Nam có đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam thì có thể được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu có đủ các điều kiện sau đây:
(1.1) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam;
(1.2) Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam;
(1.3) Biết tiếng Việt đủ để hoà nhập vào cộng đồng Việt Nam;
(1.4) Đã thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch Việt Nam;
(1.5) Có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.
(2) Người xin nhập quốc tịch Việt Nam có thể được nhập quốc tịch Việt Nam mà không phải có các điều kiện quy định tại (1.3), (1.4) và (1.5) mục này, nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:
(2.1) Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam;
(2.2) Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam;
(2.3) Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
(3) Người nhập quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài, trừ những người quy định tại (2) mục này, trong trường hợp đặc biệt, nếu được Chủ tịch nước cho phép.
(4) Người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải có tên gọi Việt Nam. Tên gọi này do người xin nhập quốc tịch Việt Nam lựa chọn và được ghi rõ trong Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.
(5) Người xin nhập quốc tịch Việt Nam không được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu việc đó làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam.
Người yêu cầu nhập quốc tịch nộp hồ sơ cho Sở Tư pháp nơi cư trú của người này để Sở Tư pháp chuyển hồ sơ xác minh về nhân thân và đề nghị các cơ quan khác giải quyết.
Và người xem xét, quyết định cho cá nhân được nhập quốc tịch Việt Nam là Chủ tịch nước.
Lưu ý: Khi nộp hồ sơ, người có yêu cầu nhập quốc tịch phải trực tiếp nộp, không uỷ quyền cho người khác