Quyết định không khởi tố vụ án hình sự là văn bản pháp lý xác định nguồn tin về tội phạm không có căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Sau khi kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm, xác định có một trong những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự quy định tại điều 157 bộ luật tố tụng hình sự thì cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Vậy quy định của pháp luật về vấn đề này như thế nào?
Tham khảo bài viết dưới đây của Luật sư X.
Cơ sở pháp lý
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Khởi tố vụ án hình sự là gì?
Khởi tố là giai đoạn đầu tiên trong tố tụng hình sự. Trong giai đoạn này cơ quan tư pháp hình sự sẽ tiến hành điều tra và xác định các dấu hiệu của tội phạm trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ sau:
- Không có sự việc phạm tội;
- Hành vi không cấu thành tội phạm;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
- Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
- Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Tội phạm đã được đại xá;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
- Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141; 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại; hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
Các trường hợp ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự
Không có sự việc phạm tội
Mục đích của khởi tố vụ án hình sự là nhằm điều tra làm rõ tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội để xử lý theo quy định của pháp luật. Trường hợp không có sự việc phạm tội thì việc khởi tố vụ án sẽ không mang lại ý nghĩa. Do đó, khi xác định không có sự việc phạm tội thì không được khởi tố vụ án hình sự.
Thông thường, có hai trường hợp xác định không có sự việc phạm tội:
- Có sự việc xảy ra trên thực tế nhưng không có dấu hiệu của tội phạm;
- Không có sự việc xảy ra do nguồn tin báo chỉ là giả tạo hoặc vu khống
Hành vi không cấu thành tội phạm
Một hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS. Nếu hành vi không có hoặc không đáp ứng các yếu tố của cấu thành tội phạm thì hành vi đó không phải là tội phạm. Do đó, sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Chính vì vậy, khi hành vi không cấu thành tội phạm thì sẽ ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Theo Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
Điều 12 xác định: Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134; 141, 142, 143, 144, 150, 151; 168, 169, 170, 171, 173, 178; 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266; 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Như vậy, điều luật giới hạn phạm vi các tội cũng như phạm vi loại tội phạm mà người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo đó, ở độ tuổi này, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm được quy định tại 28 điều luật đã được xác định; và phải thuộc trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Như vậy, trường người người thực hành vi chưa đủ độ tuổi theo quy định này thì sẽ không bị khởi tố hình sự.
Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật
Theo quy định của BLTHS, khi tòa án đã ra bản án hoặc ra quyết định đình chỉ vụ án đối với một sự việc nào đó thì có nghĩa là sự việc đó đã được giải quyết. Do đó, không ai có quyền khởi tố lại sự việc đã được giải quyết. Chính vì vậy, khi Người có hành vi phạm tội mà tòa án đã ra bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền không được khởi tố vụ án đó.
Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật hình sự 2015 quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
a) 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
b) 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;
c) 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
d) 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định dựa trên loại tội phạm. Khi hết thời hiệu thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó không thể khởi tố vụ án đó nữa.
Tội phạm được đặc xá
Đặc xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại; ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt.
Văn bản đặc xá có hiệu lực đối với những hành vi phạm tội được nêu trong văn bản; và đã xảy ra trước khi ban hành văn bản. Do đó, đối với những tội phạm được đặc xá thì cơ quan có thẩm quyền không được khởi tố vụ án hình sự.
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết; trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác
Khi người thực hiện hành vi chết có nghĩa là chủ thể của tội phạm không còn. Do đó nếu tiến hành khởi tố để điều tra và xử lí đối với người phạm tội thì cũng không đạt được mục đích của tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, trong trường hợp cần tái thẩm do có tình tiết mới thì cơ quan có thẩm quyền được khởi tố vụ án; mặc dù người thực hiện hành vi đã chết.
Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố
Những trường hợp phạm tội bị khởi tố theo yêu cầu của bị hại có tính chất, mức độ nguy hiểm không cao; chủ yếu xâm phạm đến thể chất, sức khỏe, danh dự… của người bị hại. Những trường hợp này nếu khởi tố vụ án để xử lý trách nhiệm hình sự thì trên phương diện xã hội, lợi ích thu được có thể không đáng kể. Bên cạnh đó, còn có khả năng tiếp tục gây tổn thương về tinh thần cho người bị hại.
Do đó, cơ quan có thẩm quyền chỉ được khỏi tố khi có yêu cầu của bị hại trong vụ án.
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS 2015 đã có sự điều chỉnh quy định này như sau:
Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ luật hình sự mà bị hại; hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.”.
Như vậy, quyết định không khởi tố vụ án hình sự phải dựa trên những căn cứ nhất định. Đây là vấn đề quan trọng nhằm đảm bảo mục đích và nhiệm vụ của tố tụng hình sự nói chung.
Liên hệ Luật sư X
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề: “Quyết định không khởi tố vụ án hình sự”. Để sử dụng dịch vụ của chúng tôi mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.
Liên hệ hotline: 0833.102.102
- FaceBook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tất cả vụ việc có dấu hiệu tội phạm, trừ những vụ việc do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đang thụ lý, giải quyết quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điêù 153 BLTTHS.
Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ:
1. Tố giác của cá nhân;
2. Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
3. Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng;
4. Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước;
5. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;
6. Người phạm tội tự thú.
Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác; tin báo về tội phạm; kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra; xác minh và ra một trong các quyết định:
a) Quyết định khởi tố vụ án hình sự;
b) Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;
c) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác; tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.