Tội giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi

bởi

Trong xã hội, nhiều “yêu râu xanh” lợi sự non nớt, ngây thơ, nhẹ dạ của trẻ em mà có những hành vi trái với lương tâm, đạo đức xã hội như hành vi giao cấu hoặc những hành vi quan hệ tình dục khác. Để bảo vệ những người trong độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi, Bộ luật hình sự hiện hành có quy định về “Tội giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi”; qua đó, đưa ra chế tài hình sự đối với cả những hành vi giao cấu mặc dù có “sự thuận tình” của người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi. Hãy tham khảo bài viết dưới đây của Luật sư X để hiểu thêm về tội danh này!

Căn cứ pháp lý

  • Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

Nội dung tư vấn

1. Tội giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi

Tội giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 145 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tội phạm này được quy định là hành vi giao cấu của người từ đủ 18 tuổi trở lên với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Tội phạm này được quy định có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo vệ sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của người ở độ tuổi dưới 16 tuổi và đã đủ 13 tuổi, ngăn chặn hành vi lợi dụng sự non nớt, nhẹ dạ để đẩy họ vào những quan hệ tình dục quá sớm, gây ảnh hưởng xấu về mọi mặt cho họ.

2. Các yếu tố cấu thành tội phạm của tội giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi

2.1. Dấu hiệu chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi được quy định là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Chủ thể của tội phạm này có thể là nữ giới, nhưng đa số là nam giới.

2.2. Dấu hiệu khách thể của tội phạm

Hành vi phạm tội đã xâm phạm quyền được bảo vệ thân thể, nhân phẩm, danh dự của người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến thuần phong mỹ tục đồng thời, gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bình thường về tâm, sinh lý của người bị hại.

2.3. Dấu hiệu mặt khách quan của tội phạm

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015 hiện hành thì hành vi khách quan của tội giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi là hành vi “giao cấu”. Trong đó, hành vi giao cấu là dạng hành vi thông thường của hành vi quan hệ tình dục (hành vi đưa bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ).

Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý điều luật chỉ quy định người phạm tội có hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác với người trong độ tuổi từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi mà không xác định thủ đoạn để thực hiện hành vi đó cũng như thai độ hoàn toàn không mong muốn hoặc phải miễn cưỡng chấp nhận của nạn nhân như ở các tội hiếp dâm và các tội cưỡng dâm. Ở tội giao cấu với người trong độ tuổi từ 13 đến dưới 16 tuổi,  chính vì điều luật không xác định thái độ của nạn nhân cũng như không xác định thủ đoạn như ở tội hiếp dâm và tội cưỡng dâm nên có thể hiểu có “sự thuận tình” đối với hành vi giao cấu cũng như hành vi quan hệ tình dục khác.

Như vậy, việc quy định độ tuổi của chủ thể và độ tuổi của nạn nhân gián tiếp thể hiện thủ đoạn lợi dụng sự non nớt, nhẹ dạ của nạn nhân để làm họ “thuận tình”. Dấu hiệu “thuận tình” là dấu hiệu để phân biệt tội giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi với các tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi và tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi.

 

2.4. Dấu hiệu mặt chủ quan của tội phạm 

Tội giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi thì lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý . Người phạm tội biết người mà mình giao cấu là người ở độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi nhưng vẫn thực hiện hành vi của mình.

3. Hình phạt đối với tội giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi

Đối với giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi, điều luật quy định 03 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung.

Khung hình phạt cơ bản có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất 2 có mức phạt tù từ 03 đến 10 năm được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:

  • Phạm tội 02 lần trở lên;
  • Đối với 02 người trở lên;
  • Có tính chất loạn luân;
  • Làm nạn nhân có thai;
  • Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
  • Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.

Khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:

  • Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
  • Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.

Ngoài ra, khung hình phạt bổ sung được quy định (có thể được áp dụng) là: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến 05 năm.

Hy vọng bài viết hữu ích đối với bạn!

Khuyến nghị

  1. LSX là thương hiệu hàng đầu về dịch vụ luật sư hình sự tại Việt Nam
  2. Nội dung tư vấn pháp luật mà LSX cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo. Để có những những tư vấn rõ ràng và cụ thể hơn, hãy liên hệ với chúng tôi ngay
Bình chọn bài viết

Liên hệ để được hỗ trợ tốt nhất

Có thể bạn quan tâm