Năng lực trách nhiệm hình sự (NLTNHS) là điều kiện cần thiết để xác định yếu tố lỗi của chủ thể thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Chỉ có người có NLTNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm. Bài viết dưới đây của Luật sư X; sẽ giải đáp thắc mắc về năng lực trách nhiệm hình sự là gì?
Căn cứ:
Nội dung tư vấn
Theo quy định của Bộ luật hình sự 2015; chủ chủ thể của tội phạm bao gồm con người và pháp nhân thương mại. Trong bài viết dưới đây; LSX xin tập trung làm rõ về NLTNHS của cá nhân theo quy định của pháp luật hình sự.
Khái niệm năng lực trách nhiệm hình sự của cá nhân
Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi của mình; điều khiển được hành vi theo đòi hỏi của xã hội.
Theo Bộ luật hình sự Việt Nam; người có NLTNHS là người đã đạt tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 BLHS); không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21 BLHS)
Tóm lại, năng lực trách nhiệm hình sự của cá nhân được cấu thành từ hai yếu tố:
- Khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.
- Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của năng lực trách nhiệm hình sự
Một người có thể là chủ thể của tội phạm phải có khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi của mình; khả năng điều khiển hành vi đó; khả năng kiềm chế hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình; lựa chọn một hành vi khác trong khi có đủ điều kiện lựa chọn theo những yêu cầu chung của xã hội.
Như vậy, NLTNHS thành trên hai cơ sở: sự phát triển sinh học của cơ thể và đời sống xã hội. Bộ luật Hình sự không quy định một người như thế nào là thoả mãn điều kiện về khả năng nhận thức; khả năng điều khiển hành vi mà chỉ đề cập đến trường hợp người mất khả năng nhận thức và mất khả năng điều khiển hành vi.
Dấu hiệu nhận biết năng lực trách nhiệm hình sự
Chỉ có 2 dấu hiệu để nhận biết một người không có NLTNHS ở góc độ này là: dấu hiệu y học (bệnh lý); dấu hiệu tâm lý:
- Về dấu hiệu y học: Người trong tình trạng không có NLTNHS là mắc bệnh tâm thần; hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần.
- Về dấu hiệu tâm lý: Người trong tình trạng không có NLTNHS là người đã mất năng lực hiểu biết những đòi hỏi của xã hội liên quan đến hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện; là người không có năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện là đúng hay sai; nên làm hay không nên làm. Theo đó, họ không thể kiềm chế được việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội để thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Lưu ý: Ngoài ra, nếu người đó có năng lực nhận thức; cũng như khả năng điều khiển hành vi của mình; nhưng do các xung đột bệnh lý không thể kiềm chế được việc thực hiện hành vi đó; thì vẫn được coi là không có NLTNHS.
Ngoài ra, bên cạnh tình trạng không có NLTNHS; pháp luật hình sự còn thừa nhận trường hợp hạn chế năng lực trách nhiệm hình sự. Đây là trường hợp do mắc bệnh nên năng lực nhận thức; hoặc năng lực điều khiển hành vi bị hạn chế. Người bị hạn chế năng lực trách nhiệm hình sự có ảnh hưởng nhất định đến mức độ lỗi. Lỗi của họ cũng là lỗi hạn chế. Do đó, Bộ luật hình sự Việt Nam coi tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế là tình tiết giảm nhẹ.
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Năng lực nhận thức có ở mỗi con người từ khi mới sinh ra; nhưng không phải có ý thức là có NLTNHS mà phải qua một quá trình phát triển về tâm; sinh lý trong điều kiện xã hội nhất định thì năng lực đó mới hình thành.
Đến một thời điểm nhất định trong đời sống của con người; thì năng lực này mới được xem là tương đối đầy đủ; và khi đó họ mới được xem là có đầy đủ NLTNHS.
Pháp luật quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều: 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.
Như vậy, chỉ có người từ đủ 16 tuổi trở lên mới được coi là đầy đủ NLTNHS; và phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm.
Trên đây là giải đáp của Luật sư X về câu hỏi “Năng lực trách nhiệm hình sự là gì?”
Mong bài viết hữu ích với quý bạn đọc!
Câu hỏi thường gặp
Bán dâm cho người dưới 16 tuổi chắc chắn bị phạt. Vì việc giao cấu với người dưới 16 tuổi dù tự nguyện hay không đều là hành vi vi phạm pháp luật hình sự; nhẹ thì có thể bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; năng hơn có thể bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm; 07 năm đến 15 năm…
Dưới 16 tuổi làm người khác có thai thì có hai trường hợp có thể xảy ra:
Nếu việc quan hệ là hoàn toàn tự nguyện; không ép buộc thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, nếu việc quan hệ không tự nguyện, bị ép buộc thì có thể sẽ cấu thành nên tội hiếp dâm người duới 16 tuổi hoặc tội cưỡng dâm. Khi đó, sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Còn với những người từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi hành vi của mình gây ra.