Xin chào luật sư. Tôi có một thắc mắc, khi điều tra vụ án thì có quy định về thời hạn điều tra không? Thời hạn điều tra đối với các tội được xác định như thế nào? Có được gia hạn không? Trường hợp nhập vụ án thì xác định thời hạn như thế nào? Mong luật sư giải đáp giúp tôi.
Điều tra là một trong những giai đoạn vô cùng quan trọng khi giải quyết vụ án hình sự. Qua quá trình điều tra sẽ phát hiện ra các tình tiết của vụ án và người thực hiện tội phạm. Tuy nhiên để đảm bảo hiệu quả giải quyết vụ án, việc điều tra cũng phải thực hiện trong thời hạn. Vậy thời hạn điều tra vụ án hình sự được quy định như thế nào? Xác định thời hạn điều tra trong từng trường hợp ra sao? Để giải đáp vấn đề này, Luật sư X xin giới thiệu đến bạn đọc bài viết “Điều tra trong vụ án hình sự có quy định về thời hạn không?”. Mời bạn đọc cùng tham khảo để giải đáp câu hỏi trên nhé.
Căn cứ pháp lý
- Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP
Thời hạn điều tra vụ án hình sự là gì?
Thời hạn điều tra là thời hạn do pháp luật quy định để cơ quan điều tra tiến hành điều tra vụ án. Thời hạn điều tra được tính từ ngày khởi tố vụ án đến ngày kết thúc quá trình điều tra. Thời điểm kết thúc thời hạn điều tra được xác định khi Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra một trong các quyết định:
- Bản kết luận điều tra đề nghị truy tố
- Bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra.
- Quyết định tạm đình chỉ điều tra
Theo đó trong thời hạn kể trên cơ quan điều tra phải tiến hành điều tra vụ án. Khi hết thời hạn phải kết thúc điều tra trừ trường hợp phát sinh một số vấn đề. Đó có thể là đình chỉ điều tra hoặc tạm đình chỉ điều tra,…
Thời hạn điều tra vụ án do pháp luật quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự.
Quy định về thời hạn điều tra vụ án hình sự
Thời hạn điều tra đối với các vụ án
Căn cứ Khoản 1 Khoản 2 Điều 172 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thời hạn điều tra như sau:
1. Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.
2. Trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.
Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng và lần thứ hai không quá 02 tháng;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng;
d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá 04 tháng.
Như vậy, vẫn quy định về thời hạn trong điều tra vụ án hình sự tùy tính chất mức độ phức tạp mà thời gian gia hạn cũng khác nhau.
Thẩm quyền gia hạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân được quy định ra sao?
Căn cứ Khoản 5 Điều 172 BLTTHS thẩm quyền gia hạn được quy định như sau:
5. Thẩm quyền gia hạn điều tra của Viện kiểm sát:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra cấp quân khu thụ lý điều tra thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra cấp quân khu thụ lý điều tra thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất; Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ hai. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra cấp quân khu thụ lý điều tra thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai;
d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai; Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương gia hạn điều tra lần thứ ba.
Thời hạn điều tra trong trường hợp phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại
Căn cứ Điều 174 Bộ luật tố tụng hình sự. Trường hợp phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại được quy định như sau:
Phục hồi điều tra
Trường hợp phục hồi điều tra quy định tại Điều 235 của Bộ luật này thì thời hạn điều tra tiếp không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và không quá 03 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra.
Trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.
Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 01 tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng;
c) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 03 tháng.
Thẩm quyền gia hạn điều tra đối với từng loại tội phạm theo quy định tại khoản 5 Điều 172 của Bộ luật này.
Trường hợp điều bổ sung
Trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 02 tháng; nếu do Tòa án trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 01 tháng. Viện kiểm sát chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hai lần. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần.
Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra bổ sung.
Điều tra lại
Trường hợp vụ án được trả lại để điều tra lại thì thời hạn điều tra và gia hạn điều tra thực hiện theo quy định tại Điều 172 của Bộ luật này. Do đó thời hạn điều tra trong trường hợp điều tra lại được tính như trường hợp thông thường.
Thời hạn điều tra được tính từ khi Cơ quan điều tra nhận hồ sơ và yêu cầu điều tra lại.
Xác định thời hạn điều tra trong một số trường hợp đặc biệt
Trong quá trình điều tra, nhiều sự kiện có thể xảy ra. Do đó việc xác định thời hạn điều tra có thể bị thay đổi. Sau đây cùng tìm hiểu xác định thời hạn điều tra trong một số trường hợp đặc biệt.
Theo Điều 14 Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP quy định vấn đề này như sau:
Trường hợp nhập vụ án hình sự
Trường hợp nhập vụ án hình sự để điều tra theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì thời hạn điều tra của vụ án và thời hạn tạm giam bị can được tính theo tội nặng nhất đã khởi tố đối với bị can. Thời hạn điều tra được tính từ ngày khởi tố vụ án đầu tiên.
Bị can phạm vào khoản có khung hình phạt năng hơn trong cùng điều luật
Trường hợp đang điều tra vụ án mà xác định hành vi của bị can phạm vào khoản có khung hình phạt nặng hơn trong cùng một điều luật và trường hợp quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can sang tội nặng hơn ở điều luật khác, thì thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam được tính theo tội nặng hơn nhưng phải trừ thời hạn đã điều tra, tạm giam trước đó.
Bị can phạm thêm tội khác
Trường hợp đang điều tra vụ án mà quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can về một tội phạm khác, thì thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam được tính theo tội nặng nhất. Tổng thời hạn điều tra không vượt quá thời hạn quy định tại Điều 172 Bộ luật Tố tụng hình sự; tổng thời hạn tạm giam theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng không vượt quá thời hạn điều tra.
Trường hợp thay đổi tội
Trường hợp thay đổi quyết định khởi tố bị can từ tội nặng hơn sang tội nhẹ hơn hoặc xác định được hành vi của bị can phạm vào khoản có khung hình phạt nhẹ hơn trong cùng tội danh, thì thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam được tính theo tội nhẹ hơn. Ngay sau khi thay đổi quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải trao đổi, thống nhất với Viện kiểm sát để xem xét, quyết định về việc áp dụng hoặc hủy bỏ, thay thế biện pháp ngăn chặn đối với bị can phù hợp với tội nhẹ hơn
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn về “Điều tra trong vụ án hình sự có quy định về thời hạn không?”. Mong rằng các kiến thức trên có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sồng hằng ngày. Hãy theo dõi chúng tôi để biết thêm nhiều kiến thức bổ ích. Và nếu quý khách có nhu cầu tìm hiểu về thủ tục tặng cho nhà đất; hoặc muốn sử dụng dịch vụ xác nhận tình trạng hôn nhân của chúng tôi. Mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.
Liên hệ hotline: 0833102102. Hoặc bạn có thể tham khảo thêm các kênh sau:
- FB: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Mời bạn xem thêm
- Lỗi vượt đèn đỏ rẽ phải bị phạt bao nhiêu tiền?
- Công an uống rượu bia lái xe gây tai nạn thì bị xử lý thế nào?
- Lỗi chuyển hướng không giảm tốc độ, không có đèn tín hiệu đối với xe máy
Câu hỏi thường gặp
Căn cứ Điều 174 Bộ luật tố tụng hình sự:
Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.
Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng.
Do đó thời hạn điều tra tối đã với loại tội này là 4 tháng.
Đối với trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án. Nếu Thẩm phán trả hồ sơ thì được trả một lần với thời hạn điều tra bổ sung 1 tháng. Hội đồng thẩm phán Tòa án được trả một lần cũng với thời hạn điều tra 1 tháng
Theo Điểm b Khoản 5 Điều 172 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:
Đối với tội phạm nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra cấp quân khu thụ lý điều tra thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai;