Đương sự có thể nộp đơn khởi kiện lại trong trường hợp nào?

bởi NguyenDucThuan

Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành cho phép đương sự có quyền khởi kiện lại vụ án; nhằm tạo điều kiện chấm dứt tranh chấp giữa các bên đương sự; góp phần ổn định xã hội và thúc đẩy các quan hệ pháp luật phát triển bình thường, lành mạnh. Vậy đương sự có thể nộp đơn khởi kiện lại trong trường hợp nào?

Tham khảo bài viết dưới đây của Luật sư X.

Căn cứ pháp lý

Bộ luật tố tụng dân sự 2015

Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP

Đương sự trong tố tụng dân sự

Đương sự trong vụ việc dân sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước; thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc dân sự.

Khoản 1, Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự:“Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan tổ chức bao gồm: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.

Các trường hợp đương sự có thể nộp đơn khởi kiện lại

Khoản 3 điều 192 BLTTDS 2015 quy định:

Đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại trong các trường hợp sau đây:

a) Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;

b) Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại; yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản; thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản; đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;

c) Đã có đủ điều kiện khởi kiện;

d) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự

Người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.

Năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự là khả năng bằng hành vi của mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Nếu năng lực pháp luật tố tụng dân sự là điều kiện cần thì năng lực hành vi tố tụng dân sự là điều kiện đủ để một chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.

Trường hợp này có thể hiểu, khi khởi kiện lần đầu, người khởi kiện chưa có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Do đó, tòa án không thụ lí đơn khởi kiện và giải quyết vụ án (trả lại đơn khởi kiện). Tuy nhiên, khi họ có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì có quyền nộp đơn khởi kiện lại.

Các yêu cầu theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại

Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại; yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản; thay đổi người quản lý di sản; thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản; đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà; đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ.

Tuy nhiên, để có thể nộp đơn khởi kiện lại trong những vụ án này phải đáp ứng điều kiện; cụ thể, trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại.

Đã có đủ điều kiện khởi kiện

Điều kiện khởi kiện ở đây được hiểu là những điều kiện tiền tố tụng.

Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất; tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất; chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất;… thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án.

Các trường hợp khác

Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật” quy định tại điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là các trường hợp trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 chưa quy định nhưng đã được quy định trong Nghị quyết 04/2017; các văn bản quy phạm pháp luật khác; hoặc trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Đối với những vụ án tranh chấp thừa kế

Đối với những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày 01-01-2017; Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện hoặc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì lý do “thời hiệu khởi kiện đã hết”; nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thời hiệu khởi kiện vụ án đó vẫn còn; thì người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Đối với những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày 01-01-2017; đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định; (trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì thời hiệu khởi kiện đã hết) đã có hiệu lực pháp luật thì theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; người khởi kiện không có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án đó;

Đối với những vụ án chia tài sản chung là di sản thừa kế

Đối với những vụ án dân sự chia tài sản chung là di sản thừa kế đã hết thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế; mà trước ngày 01-01-2017 Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án; và trả lại đơn khởi kiện vì chưa đủ điều kiện khởi kiện chia tài sản chung; nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thời hiệu khởi kiện vụ án chia thừa kế đối với di sản thừa kế đó vẫn còn.

Trường hợp này, thì người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.

Đối với những vụ án dân sự chia tài sản chung là di sản thừa kế. Nếu đã hết thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà trước ngày 01-01-2017 đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định (trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì thời hiệu khởi kiện đã hết) đã có hiệu lực pháp luật; thì theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện không có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án đó.

Đối với vụ án bị đình chỉ

Trường hợp vụ án bị đình chỉ giải quyết theo hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Nghị quyết 04/2017 thì theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; người khởi kiện có quyền khởi kiện lại vụ án đó khi cung cấp được đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc; hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Liên hệ luật sư X

Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề: “Đương sự có thể nộp đơn khởi kiện lại trong trường hợp nào?” Để sử dụng dịch vụ của chúng tôi mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.

Liên hệ hotline: 0833102102

  1. FaceBook: www.facebook.com/luatsux
  2. Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
  3. Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux

Câu hỏi thường gặp

Quyền khởi kiện vụ án dân sự

Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình; hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện); tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng; lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.

Thời hạn giải quyết vụ án dân sự

Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là 4 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với vụ án có tính chất phức tạp; hoặc do trở ngại khách quan thì được gia hạn thời gian chuẩn bị xét xử thêm 2 tháng.
Thời hạn mở phiên tòa là 1 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 2 tháng.

Gửi đơn khởi kiện đến tòa án bằng cách nào?

Người khởi kiện gửi đơn khởi kiện kèm theo tài liệu, chứng cứ mà mình hiện có đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng các phương thức sau đây:
a) Nộp trực tiếp tại Tòa án;
b) Gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính;
c) Gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).

5/5 - (1 bình chọn)

Liên hệ để được hỗ trợ tốt nhất

Có thể bạn quan tâm