“Ăn chặn” tiền từ thiện vốn là một vấn đề nổi cộm tại Việt Nam sau mỗi lần ủng hộ. Việt Nam vốn là một nước ven biển; mỗi năm phải hứng chịu từ 6 – 8 cơn bão; cuộc sống của người dân sau mỗi mùa bão về lại trở nên khó khăn. Chính những lúc đó; cả nước lại cùng nhau “hướng về miền Trung” ruột thịt. Ai có của góp của, ai có công góp công; ai có sức góp sức; ai không thể trực tiếp giúp đỡ thì gián tiếp giúp đỡ.
Hiện nay; Việt Nam không chỉ phải đối mặt với bão lũ mà còn phải đối mặt với dịch bệnh. Dịch bệnh kéo dài khiến nhiều người mất đi nguồn thu nhập; sống lay lắt nơi đất khách quê người không nơi nương tựa. Bên cạnh những chính sách giúp đỡ của Nhà nước; người dân cũng đóng góp một phần không nhỏ. Tuy nhiên, lại có những người lợi dụng tình hình này để chiếm đoạt tài sản của người khác. Vậy hành vi “ăn chặn” tiền từ thiện có thể bị xử lý như thế nào? Hãy cùng Luật sư X tìm hiểu thông qua bài viết sau:
Căn cứ pháp lý
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Khái niệm xoay quanh hành vi “ăn chặn” tiền từ thiện
Thế nào là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản?
Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác.
Thế nào là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản?
Hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi:
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện nhưng cố tình không trả.
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
Trách nhiệm hành chính đối với hành vi “ăn chặn’ tiền từ thiện
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP; phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác.
Trách nhiệm hình sự đối với hành vi “ăn chặn” tiền từ thiện
Nếu hành vi “ăn chặn” tiền từ thiện xảy ra từ trước đó
Hành vi “ăn chặn” tiền từ thiện xuất hiện từ trước tức là người phạm tội sử dụng việc từ thiện để chiếm đoạt tiền của người khác. Hành vi này có thể bị xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với các mức hình phạt:
Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm; phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm trong trường hợp:
Một; tài sản chiếm đoạt trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.
Hai; tài sản chiếm đoạt trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng rơi vào các trường hợp: đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội này hoặc về một tỏng các tội quy định tại điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175, 290 Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm trong trường hợp: có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; tái phạm nguy hiểm; lợi dụng chức vụ, quyền hại hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; dùng thủ đoạn xảo quyệt.
Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm trong trường hợp: chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm; tù chung thân trong trường hợp: chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên; lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Nếu hành vi “ăn chặn” tiền từ thiện xảy ra sau khi người phạm tội đã có tài sản một cách hợp pháp
Bên cạnh đó; nếu hành vi “ăn chặn” tiền từ thiện xảy ra sau khi người phạm tội đã có tiền một cách hợp pháp; người phạm tội có thể phải đối mặt với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với các mức hình phạt sau:
Phạt cải tạo không giam giữ; phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm trong trường hợp:
Một; tài sản chiếm đoạt trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.
Hai; tài sản chiếm đoạt trị giá dưới 4.000.000 đồng nhưng rơi vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm trong trường hợp: có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; dùng thủ đoạn xảo quyệt; gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tái phạm nguy hiểm.
Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm trong trường hợp: chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm trong trường hợp: chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên.
Giải quyết tình huống
Đối với những trường hợp người có ảnh hưởng thực hiện hành vi này; thì khả năng cao sẽ rơi vào trường hợp “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Cũng theo quy định tại khoản 4 Điều 175 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tài sản chiếm đoạt trị giá từ 500.000.000 trở lên là đủ căn cứ để người phạm tội chịu hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
Có thể bạn quan tâm:
- Cán bộ lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bị xử lý ra sao?
- Hành vi lừa đảo vờ chạy án để chiếm đoạt tài sản bị xử lý ra sao?
- Cán bộ lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị xử lý như thế nào theo quy định?
Thông tin liên hệ
Trên đây là quan điểm của Luật sư X về vụ việc “Hành vi “ăn chặn” tiền từ thiện có thể đối mặt với mức án tù chung thân“. Để biết thêm thông tin chi tiết về vụ việc hoặc giải đáp những vấn đề pháp lý khó khăn; vui lòng sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật hoặc liên hệ hotline: 0833.102.102.
Câu hỏi thường gặp
Theo quy định tại khoản 4 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); nếu tài sản bị chiếm đoạt lên đến vài trăm tỷ thì mức hình phạt cao nhất mà người phạm tội phải chịu cũng chỉ từ 12 năm đến 20 năm. Do tại quy định đó quy định tài sản chiếm đoạt từ 500.000.000 trở lên.
Nếu thực hiện hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác; mà tài sản đó trị giá dưới 2.000.000 đồng thì người phạm tội có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu rơi vào trường hợp quy định tại khoản 1 Điều đó.
Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản lợi dụng tình hình thiên tai, dịch bệnh có thể là hành vi của một người đăng tải thông tin lên mạng xã hội nói rằng mình đang trong tình trạng khó khăn, cần sự giúp đỡ. Nhưng sự thực thì không phải như vậy.