Ngày hôm nay, trên các trang mạng xã hội đang lan truyền thông tin một đôi vợ chồng đi chữa hiếm muộn ở nhà một thầy lang; khi đứa bé được sinh ra đi xét nghiêm ADN thì con lại là của thầy lang.”Trước đó, năm 2017, vợ chồng anh Nguyễn Văn X. ở huyện Lục Nam (Bắc Giang) lấy nhau đã lâu mà chưa có con. Nghe tin ở xã Hồng Giang (Lục Ngạn) có “thầy” lang chữa được bệnh hiếm muộn; anh X. đưa vợ đến khám.Kết luận giám định nêu rõ ông Vũ Trọng Hải (thầy lang Hải) ở thôn Kép, xã Hồng Giang, huyện Lục Ngạn (người bị chị Y. tố cáo lợi dụng chữa hiếm muộn để cưỡng dâm mình) là cha đẻ hai con do chị Y. sinh ra với xác suất 99,99%.
Được biết, Công an huyện Lục Ngạn đã gửi thông báo kết luận giám định cho gia đình chị Y. và tiếp tục xác minh. Tuy nhiên, thấy con càng lớn càng có nhiều nét giống ông Hải mà không giống mình, anh X. lấy tóc đi giám định, kết quả xét nghiệm ADN của cả hai bé không cùng ADN với bố.”
Vây với hành vi lợi dụng chữa hiếm muộn để cưỡng dâm thì bị xử lý như thế nào? Hãy cùng Luật sư X tìm hiểu nhé.
Căn cứ pháp lý
Bộ Luật Hình Sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
Cưỡng dâm là gì?
Tội cưỡng dâm được quy định tại điều 143 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, cụ thể:
Tội cưỡng dâm được quy định là hành vi ép buộc người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tĩnh trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
Cưỡng dâm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm quyền được tôn trọng, danh dự nhân phẩm của người khác. Hành vi cưỡng dâm được quy định là tội danh độc lập thuộc nhóm tội xâm phạm nhân phẩm trong Luật hình sự. Đâ là hành vi rất đáng lên án trong xã hội hiện nay.
Cấu thành tội cưỡng dâm
Mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội này gồm có các dấu hiệu sau:
– Về hành vi: Có hành vi giao cấu với người khác ;(là người bị lệ thuộc hoặc đang cần sự giúp đỡ do đang ở trong tình trạng quẫn bách) bằng cách dùng thủ đoạn như dụ dỗ, mua chuộc, đe doạ…
– Dấu hiệu khác.
Đối tượng bị hại phải là người có mối quan hệ lệ thuộc với người phạm tội. Được hiểu là mối quan hệ lệ thuộc về nhiều mặt: về vật chất (như được nuôi dưỡng, được trợ giúp về điều kiện sinh sống..); về xã hội (như giữa giáo viên với học sinh, giữa bác sĩ với bệnh nhân); về tín ngưỡng (giữa tín đồ với người có chức sắc tôn giáo); về quan hệ gia đình (như giữa anh chị em cùng cha khác mẹ…); về công tác (như giữa thủ trưởng với nhân viên thuộc quyền…). Tất cả mối quan hệ nêu trên phải là mối quan hệ lệ thuộc thực sự; tức là người phạm tội phải có uy thế nhất định đối với người bị hại.
Người đang ở trong tình trạng quẫn bách; Được hiểu là trường hợp người bị hại đó đang gặp những khó khăn rất lớn về kinh tế…; khó có thể khắc phục được hoặc đang gặp hiểm hoạ; (như người thân đang mắc bệnh hiểm nghèo không có điều kiện về tài chính để đưa đi chữa trị, bản thân; hoặc gia đình bị thiên tai bị phá sản… nên bị túng thiếu nghiêm trọng cần phải có ngay sự giúp đỡ).
Phải là miễn cưỡng giao cấu với người phạm tội: Được hiểu là người bị hại chấp nhận giao cấu nhưng không phải tự nguyện; mà do sự tác động bởi các thủ đoạn khống chế tư tưởng (như doạ dẫm, hứa hẹn, giúp đỡ…) của người phạm tội.
Lưu ý:
+ Việc dùng thủ đoạn để khống chế tư tưởng bằng cách doạ dẫm ngưòi khác; chưa phải đến mức thực sự làm họ khiếp sợ đến mức ý chí tự vệ bị tê liệt; nghĩa là họ vẫn còn khả năng kháng cự, tuy nhiên họ đã không kháng cự; (đây là điểm khác biệt với trường hợp hiếp dâm, người bị hại đã tê liệt ý chí không kháng cự được); mà tự nguyện cho giao cấu một cách miễn cưỡng theo điều kiện mà người phạm tội đã đưa ra.
+ Tội phạm hoàn thành từ lúc người bị hại giao cấu với người phạm tội.
+ Việc đe doạ không phải là đe doạ dùng vũ lực.
+ Người bị hại là người từ đủ mười sáu tuổi trở lên.
Khách thể của tội phạm:
Hành vi cưỡng dâm nêu trên xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự và sức khoẻ của người khác.
Mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội cưỡng dâm thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý; đồng thời còn xâm phạm đến sức khoẻ, tính mạng của người khác.
Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội cưỡng dâm là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự, đồng thời phải có mối quan hệ lệ thuộc với người bị hại hoặc có quan hệ nhất định trong việc giúp đỡ người bị hại thoát khỏi tình trạng quẫn bách.
Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo Bộ luật hình sự?
Theo quy định tại Điều 144 – Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo Bộ luật hình sự 2015:
“1. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tính chất loạn luân;
b) Làm nạn nhân có thai;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
d) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;
đ) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Đối với 02 người trở lên;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Nhiều người cưỡng dâm một người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
d) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
đ) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Hành vi lợi dụng chữa hiếm muộn để cưỡng dâm bị xử lý thế nào?
Hình phạt của tội này được chia thành bốn khung, cụ thể như sau:
Khung một (khoản 1)
Có mức phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. Được áp dụng đốì với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này nêu ở mặt khách quan.
Khung hai (khoản 2)
Có mức phạt tù từ ba năm đến mười năm. Được áp dụng đốì với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:
+ Nhiều người cưỡng dâm một người (xem giải thích tương tự ở tội hiếp dâm).
+ Cưỡng dâm nhiều lần (từ hai lần trở lên).
+ Cưỡng dâm nhiều người (xem giải thích tương tự ở tội hiếp dâm).
+ Có tính chất loạn luân (xem giải thích tương tự ở tội hiếp dâm).
+ Làm nạn nhân có thai (việc xác định nạn nhân có thai hay không phải căn cứ vào kết quả giám định của cơ quan y tế chuyên môn).
+ Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
+ Tái phạm nguy hiểm (xem giải thích tương tự ở tội giết người).
Khung ba (khoản 3)
Có mức phạt tù từ bảy năm đến mười tám năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp sau đây:
+ Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61%
trở lên;
+ Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội cưỡng dâm;
+ Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Khung bốn (khoản 4)
Có mức phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Được áp dụng trong trường hợp người bị hại là người chưa thành niên từ đủ mười sáu tuổi đến dưới mười tám tuổi.
Hình phạt bổ sung (khoản 5)
Ngoài việc bị áp dụng một trong các hình phạt chính nêu trên; tuỳ từng trường hợp cụ thể người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề; hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Vậy với hành vi hành vi lợi dụng chữa hiếm muộn để cưỡng dâm; làm nạn nhân có thai thì thầy lang có thể bị đi tù 10 năm. Tùy theo mức độ vi phạm
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Phân biệt dễ hiểu hiếp dâm và cưỡng dâm
- Tội hành nghề mê tín dị đoan theo quy định Bộ luật hình sự 2015
- Hiếp dâm người dưới 16 tuổi bị xử phạt như thế nào ?
- Thực hiện hành vi dâm ô với trẻ em sẽ bị xử lý như thế nào theo quy định?
Trên đây là bài viết tư vấn của chúng tôi về vấn đề “Hành vi lợi dụng chữa hiếm muộn để cưỡng dâm có thể bị đi tù 10 năm“. Hy vọng bài viết có ích cho độc giả. Mọi thắc mắc xin vui lòng liên hệ: 0833102102
Câu hỏi thường gặp
1. Tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm luân thường, đạo đức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi dụng nghề nghiệp, công việc; xâm hại người dưới 13 tuổi.
3. Áp dụng các hình phạt bổ sung cao nhất theo quy định của Bộ luật Hình sự và các đạo luật khác có liên quan. Trong trường hợp cần thiết có thể cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề liên quan đến người dưới 16 tuổi.
Là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào.
– Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm– Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
Căn cứ theo mức độ hành vi mà người có hành vi mua dâm người dưới 14 tuổi; bị xử phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng; ngoài ra, phải đối mặt với án phạt tù từ 01 đến 15 năm.