Ngày nay, với sự phát triển của mạng xã hội, các đối tượng ngày càng có nhiều thủ đoạn lừa đảo tinh vi. Từ đầu năm 2021 đến nay, đã có rất nhiều vụ việc lừa đảo qua mạng đáng tiếc xảy ra. Đây là lời nhắc nhở sự cảnh giác của tất cả chúng ta; tránh để các đối tượng xấu lợi dụng để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.
Tối 4/8, Công an TP Hải Phòng cho biết, Công an quận Ngô Quyền đang tiếp tục điều tra; làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật đối với Hoàng Tuấn Long (SN 2001, HKTT tại phường Hồ Nam, quận Lê Chân) về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Được biết qua quá trình điều tra, đối tượng khai nhận đã thực hiện tổng cộng 5 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn TP Hải Phòng; 2 vụ tại Bắc Giang, Đà Nẵng.
Các vụ lừa đảo, đối tượng đều lợi dụng các bài đăng rao bán các sản phẩm công nghệ như: máy ảnh, điện thoại trên mạng xã hội; rồi từ đó liên hệ với chủ bài đăng và những người có nhu cầu mua hàng để thực hiện hành vi lừa đảo.
Với thủ đoạn gọi điện cho người bán giả làm người mua hàng, hẹn gặp để giao dịch; rồi sau đó lại giả làm người bán liên hệ với người có nhu cầu mua. Đối tượng khi liên hệ với cả hai bên đều nhắc khi giao dịch không được nhắc tới chuyện mua bán và nhờ bạn mình qua lấy máy hộ. Qua đó, đối tượng đã thực hiện trót lọt được các vụ lừa đảo qua mạng xã hội.
Căn cứ pháp lý
Lừa đảo qua mạng phạm vào tội gì?
Dưới góc nhìn pháp lý, hành vi lừa đảo qua mạng được coi là một hành vi dùng thủ đoạn gian dối để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác.
Cụ thể, đối tượng có thể dùng thủ đoạn gian dối như: đưa ra thông tin giả. Từ đó, làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội.
Với trường hợp lừa đảo qua mạng, thủ đoạn gian dối thường là những câu chuyện bịa đặt được đăng tải trên mạng; thậm chí là cố tình lừa dối tình cảm người khác hoặc giả mạo người có chức vụ, quyền hạn…nhằm mục đích khiến người bị lừa tin tưởng và giao tài sản cho người lừa đảo.
Vì vậy, hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản nói chung; và hành vi lừa đảo qua mạng nói riêng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Tội lừa đảo qua mạng xã hội để chiếm đoạt tài sản xử phạt như thế nào?
Tội lừa đảo qua mạng được quy về tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại
Điều 174, Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi và bổ sung 2017:
Khoản 1:
“Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Khoản 2:
Phạm tội lừa đảo thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
Khoản 3:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
Khoản 4:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây; thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Khoản 5:
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng; cấm đảm nhiệm chức vụ; cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới 2 triệu có chịu trách nhiệm hình sự không?
Do trong bộ luật Hình sự 2015 chỉ quy định điều chỉnh với những hành vi lừa đảo tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên. Vì vậy, với những trường hợp tài sản dưới 2 triệu sẽ bị xử phạt hành chính.
Mức phạt của hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác được quy định:
Tại khoản 1 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP là phạt tiền từ 01 – 02 triệu đồng.
Như vậy, trường hợp lừa đảo qua mạng chưa đến mức chịu trách nhiệm hình sự có thể xử lý:
Bị phạt hành chính đến 02 triệu đồng.
Giải quyết tình huống:
Hiện tại, các vụ lừa đảo của đối tượng Hoàng Tuấn Long vẫn đang được tiếp tục điều tra. Với trường hợp này, để xác định được chính xác mức án cho đối tượng Long cần bổ sung thêm các tình tiết điều tra từ các đơn vị chức năng.
Khả năng cao, đối tượng sẽ nhận mức án theo khoản 1 điều 174 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi và bổ sung 2017, với mức án cao nhất có thể đối mặt là 3 năm tù.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Lừa đảo qua mạng có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo bộ luật mới nhất
- Bị lừa đảo trên mạng thì phải làm thế nào?
Thông tin liên hệ
Trên đây là quan điểm của Luật sư X về vụ việc “Hành vi lừa đảo qua mạng xã hội có thể đối mặt mức án 3 năm tù”. Tất cả mọi thắc mắc về vụ án hoặc những vấn đề pháp lý trong cuộc sống; vui lòng sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật hoặc liên hệ hotline: 0833.102.102.
Câu hỏi thường gặp
Với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thì từ ban đầu người phạm tội đã có ý định dùng các biện pháp thủ đoạn gian dối để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Còn với tội lạm dụng tín nhiệm, ban đầu người phạm tội chưa có ý định thực hiện hành vi chiếm đoạt, mà có thể vì lòng tham khi được tin tưởng giao giữ hộ tài sản mà hình thành nên hành vi chiếm đoạt.
Khi anh/chị phát hiện tài khoản facebook bị hack và có dấu hiệu lừa đảo, anh/chị có thể tố cáo hành vi này đến Công an xã nơi người đó cư trú. Nếu không xác định được nơi cư trú của người đó và không biết người đó là ai, anh/chị có thể làm đơn tố cáo gửi cho Công an xã nơi anh/chị cư trú. Trong đơn tố cáo, anh/chị cần trình bày rõ nội dung sự việc và gửi kèm các bằng chứng chứng minh nội dung tố cáo là có cơ sở nội dung tin nhắn qua facebook, số điện thoại, địa chỉ facebook.