Lời khai là lời trình bày của bị can, bị cáo, người bị hại, người bị tạm giữ, người làm chứng, người có quyền và nghĩa vụ liên quan tới vụ án, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự mà người này đã thực hiện hoặc biết được theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án theo trình tự luật định nhằm giải quyết vụ án một cách đúng đắn, khách quan. Trong bất kì một vụ án tố tụng hình sự nào việc lấy lời khai của bị can, bị cáo được coi là nguồn chứng cứ phổ biến, gần như là điểm xuất phát, cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành điều tra, xác minh, thu thập các nguồn chứng cứ liên quan khác. Vậy việc lấy lời khai nhận tội của bị can có được coi là chứng cứ để buộc tội không?
Mời quý độc giả cùng Luật sư X giải đáp vấn đề trên qua bài viết dưới đây.
Căn cứ pháp lý
Bị can, bị cáo là những ai?
Căn cứ Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi bổ sung 2017, bị can, bị cáo được quy định như sau:
– Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (khoản 1 Điều 60).
– Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (khoản 1 Điều 61).
Bị can, bị cáo có khác nguyên đơn, người bị hại?
Nhóm 1: bị đơn, nguyên đơn, bị hại: đây thường là những vụ án dân sự: trong đó bị đơn là người bị kiện, nguyên đơn là người đi kiện, bị hại là người bị gây thiệt hại. trong nhiều trường hợp nguyên đơn trùng với bị hại, có trường hợp không trùng.
Nhóm 2: bị cáo, bị hại, bị can: thuật ngữ này được sử dụng trong hình sự. theo bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì bị can là người đã bị khởi tố hình sự, bị cáo là người bị tòa án quyết định đưa ra xét xử.
Lời khai của bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật
Căn cứ Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi bổ sung 2017 về thu thập lời khai của bị can, bị cáo được quy định như sau:
“Điều 98. Lời khai của bị can, bị cáo
1. Bị can, bị cáo trình bày những tình tiết của vụ án.
2. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án.
Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.”
Bị can, bị cáo là chủ thể của tội phạm nên là người hiểu đầy đủ nhất, sâu sắc toàn diện hành vi phạm tội và vụ án, lời khai của bị can, bị cáo chính là nguồn chứng cứ mang tính chất đặc biệt, được quy định bởi địa vị pháp lý của họ trong tố tụng hình sự: Bị can, bị cáo là người biết rõ hơn ai hết mình có thực hiện tội phạm hay không và nếu có thực hiện tội phạm, biết rõ về động cơ, mục đích thực hiện tội phạm và những tình tiết khác có liên quan; số phận của bị can, bị cáo phụ thuộc trực tiếp vào kết quả giải quyết vụ án, bởi lẽ, trong trường hợp bị tòa án tuyên có tội, họ có thể bị áp dụng hình phạt hoặc các biện pháp hình sự khác, nên các CQTHTT yêu cầu họ trình bày những tình tiết của vụ án.
Lời khai của bị can là sự trình bày bằng miệng của người đã bị khởi tố về hình sự về những tình tiết của vụ án, được thực hiện trước Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, theo thủ tục do pháp luật quy định.
Lời khai của bị cáo là sự trình bày bằng miệng của người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử về những tình tiết của vụ án, được thực hiện trước Hội đồng xét xử, theo thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Lời khai nhận tội của bị can có được coi là chứng cứ để buộc tội?
Bị can, bị cáo vẫn có những quyền được bảo vệ theo pháp luật. Cụ thể Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định các quyền như sau:
Theo Khoản 2 Điều 60 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Bị can có quyền
- Được biết lý do mình bị khởi tố;
Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; - Nhận quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
- Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
- Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
- Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
- Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
- Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
- Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu;
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Bên cạnh các quy định về trình tự, thủ tục lấy lời khai, hỏi cung hoặc xét hỏi tại phiên tòa, một trong những nội dung có ý nghĩa quan trọng là phải bảo đảm tính hợp pháp trong biên bản ghi nhận lời khai của bị can, bị cáo là sự hiện diện của người bào chữa trong trường hợp họ tham gia tố tụng.
Để chống oan sai, không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội. Trên cơ sở quy định này, các CQTHTT (Cơ quan tiến hành tố tụng) phải thu thập, kiểm tra, đánh giá các chứng cứ khác để xác định lời nhận tội của bị can, bị cáo có đúng sự thật hay không. Không được chỉ tập trung áp dụng các biện pháp để kiểm tra bị cáo nhận tội mà bỏ qua việc phát hiện, kiểm tra, đánh giá chứng cứ khác.
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thử tục do Bộ luật này quy định và có bản kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, Lời nhận tội của bị can, bị cáo phải được kiểm tra, so sánh, đối chiếu với các chứng cứ khác của vụ án, nó chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.
Mời bạn xem thêm:
- Sử dụng trái phép chất ma túy bị xử lý ra sao?
- Theo quy định 2022 trốn khỏi nơi cai nghiện ma túy bị xử lý như thế nào?
- Bạo hành “người yêu” bị xử phạt như thế nào năm 2022?
- Nhận hối lộ bị xử lý thế nào theo quy định 2022?
Thông tin liên hệ
Vấn đề “Lời khai nhận tội của bị can có được coi là chứng cứ để buộc tội?” đã được chúng tôi cung cấp qua thông tin bài viết trên. Luật sư X luôn có sự hỗ trợ nhiệt tình từ các chuyên viên tư vấn pháp lý, quý khách hàng có vướng mắc hoặc nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý liên quan như dịch vụ đổi tên bố trong giấy khai sinh… vui lòng liên hệ đến hotline: 0833.102.102. Chúng tôi sẽ giải quyết các khúc mắc của khách hàng, làm các dịch vụ một cách nhanh chóng, dễ dàng, thuận tiện. Hoặc khách hàng có thể tham khảo thêm các kênh sau:
- FB: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Không được khởi tố vụ án hình sự khi có các căn cứ quy định tại Điều 157 Bộ luật TTHS 2015
Điều 157 Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự
Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ sau:
1. Không có sự việc phạm tội;
2. Hành vi không cấu thành tội phạm;
3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
6. Tội phạm đã được đại xá;
7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
8. Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
Theo Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về việc hỏi cung bị can như sau:
– Việc hỏi cung bị can do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó.
Trước khi hỏi cung bị can, Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm sát viên và người bào chữa thời gian, địa điểm hỏi cung. Khi xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên tham gia việc hỏi cung bị can.
– Trước khi tiến hành hỏi cung lần đầu, Điều tra viên phải giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại mục 2. Việc này phải ghi vào biên bản.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can thì hỏi riêng từng người và không để họ tiếp xúc với nhau. Có thể cho bị can viết bản tự khai của mình.
– Không hỏi cung bị can vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn được nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
– Kiểm sát viên hỏi cung bị can trong trường hợp bị can kêu oan, khiếu nại hoạt động điều tra hoặc có căn cứ xác định việc điều tra vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp khác khi xét thấy cần thiết. Việc Kiểm sát viên hỏi cung bị can được tiến hành theo quy định.
– Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên bức cung, dùng nhục hình đối với bị can thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
– Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Như vậy, việc hỏi cung bị can sẽ được tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can.
Theo Điều 184 BLTTHS 2015 quy định việc sửa chữa, bổ sung lời khai trong biên bản phải được tiến hành trước khi kết thúc buổi hỏi hỏi cung. Điều tra viên và bị can phải ký xác nhận vào vị trí được sửa chữa, bổ sung đó. Ngoài ra, bị cáo có cũng quyền thay đổi lời khai tại phiên xét xử ở Tòa án.