Trong hệ thống pháp luật hiện nay quy định hình phạt gồm có hình phạt chính và hình phạt bỏ sung, trong đóng hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội và truy cứu trách nhiệm hình sự khi pháp nhân thương mại phạm tội. Hình phạt chính được áp dụng khi pháp nhân thương mại phạm tội bao gồm phạt tiền, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, đình chỉ hoạt động có thời hạn và các hình phạt bổ sung khác. Vậy quy định về thời hạn đình chỉ hoạt động có thời hạn pháp nhân thương mại phạm tội là bao lâu? Và thủ tục đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với pháp nhân thương mại hiện nay như thế nào? Để hiểu rõ hơn quy định về nội dung này, bạn đọc hãy theo dõi nội dung bài viết dưới đây của LSX.
Căn cứ pháp lý
Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
Đình chỉ hoạt động có thời hạn pháp nhân thương mại phạm tội được hiểu như thế nào?
Căn cứ khoản 1 Điều 78 Bộ luật Hình sự 2015 quy định đình chỉ hoạt động có thời hạn pháp nhân thương mại phạm tội như sau:
Đình chỉ hoạt động có thời hạn
1. Đình chỉ hoạt động có thời hạn là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế.
…
Đối chiếu quy định trên, như vậy, đình chỉ hoạt động có thời hạn pháp nhân thương mại phạm tội được hiểu là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế.
Thời hạn đình chỉ hoạt động có thời hạn pháp nhân thương mại phạm tội là bao lâu?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 78 Bộ luật Hình sự 2015 quy định như sau:
Đình chỉ hoạt động có thời hạn
…
2. Thời hạn đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 03 năm.
Như vậy, thời hạn đình chỉ hoạt động có thời hạn pháp nhân thương mại phạm tội từ 06 tháng đến 03 năm.
Thủ tục đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với pháp nhân thương mại năm 2023
Căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại
– Điều 83 BLHS quy định về căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại như sau: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại và các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại”.
– Theo quy định này, các căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại bao gồm:
+ Các quy định của BLHS;
+ Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;
+ Việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS áp dụng đối với pháp nhân thương mại.
Các quy định của Bộ luật hình sự
Khi quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại, tòa án phải căn cứ vào các quy định của BLHS để lựa chọn biện pháp xử lí trong đó có lựa chọn loại và xác định mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với pháp nhân thương mại. Đó là những quy định sau:
Các quy định trong Phần chung BLHS:
+ Quy định về cơ sở của TNHS (khoản 2 Điều 2 BLHS)
+ Quy định về nguyên tắc xử lí đối với pháp nhân thương mại phạm tội (khoản 2 Điều 3 BLHS);
+ Quy định về hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 33; Điều 77 đến Điều 81 BLHS);
+ Quy định về biện pháp tư pháp đối với pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 82 BLHS);
+ Quy định về căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 83 BLHS);
+ Quy định về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS đối với pháp nhân thương mại (Điều 84 và Điều 85 BLHS);
+ Quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp pháp nhân thương mại phạm nhiều tội (Điều 86 BLHS);
+ Quy định về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 87 BLHS);
– Các quy định trong Phần các tội phạm BLHS: Đó là các quy định về khung hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung được áp dụng cho pháp nhân thương mại. Các khung hình phạt này được quy định cho các tội phạm thuộc phạm vi pháp nhân thương mại phải chịu TNHS (các tội được liệt kê tại. Điều 76 BLHS).
– Khi quyết định hình phạt cho pháp nhân thương mại, tòa án cũng phải căn cứ vào tính chất và mức độ của hành vi phạm tội (của tội phạm thuộc phạm vi chịu TNHS của pháp nhân thương mại và pháp nhân thương mại có đủ điều kiện chịu TNHS về tội phạm đó).
– Vì quyết định hình phạt là quyết định trong phạm vi khung hình phạt cho phép nên quyết định hình phạt chủ yếu căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Mức độ đó phụ thuộc trước hết vào những yếu tố như tính chất của hành vi phạm tội; tính chất và mức độ của hậu quả; mức độ lỗi; hoàn cảnh phạm tội…”
Việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại
– Khi quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại, tòa án còn phải căn cứ vào việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại trong cả quá trình từ trước đến khi bị coi là chủ thể phải chịu TNHS. Xem xét việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại chủ yếu nhằm xác định khả năng đạt được mục đích của hình phạt cũng như của các biện pháp xử lí khác đối với pháp nhân thương mại.
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS áp dụng đối với pháp nhân thương mại
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS áp dụng đối với pháp nhân thương mại là những tình tiết đã được quy định cụ thể tại Điều 84 và Điều 85 BLHS. Các tình tiết đó có thể được phân loại thành hai nhóm khác nhau:
– Các tình tiết ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội (làm giảm xuống hoặc tăng lên đáng kể);
– Các tình tiết phản ánh khả năng giáo dục của pháp nhân thương mại. T THÚC KHÁCH CÓ
Về tính chất pháp lý của các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS áp dụng đối với pháp nhân thương mại, cần chú ý:
– Các tình tiết giảm nhẹ TNHS đối với pháp nhân thương mại bao gồm những tình tiết được quy định tại Điều 84 BLHS và những tình tiết khác được tòa án xác định là tình tiết giảm nhẹ TNHS cần được cân nhắc khi quyết định hình phạt cho pháp nhân thương mại.
– Các tình tiết tăng nặng TNHS đối với pháp nhân thương mại chỉ có thể là những tình tiết đã được qui định tại Điều 85.
– Tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS được nêu trên đây sẽ không được coi là tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS đối với tội phạm mà CTTP của nó đã sử dụng tình tiết này làm dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt.
Hầu hết các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS được áp dụng cho pháp nhân thương mại mới chỉ được xác định khái quát mà chưa được mô tả cụ thể. Riêng tình tiết tăng nặng tái phạm và tái phạm nguy hiểm được quy định cụ thể tại Điều 53 BLHS giảm nhẹ, tăng nặng TNHS đối với pháp nhân thương mại.
Mời bạn xem thêm:
- Thủ tục tách thửa, sang tên cha mẹ cho con
- Hướng dẫn thủ tục tách thửa tại Hà Nội năm 2021
- Đất quy hoạch có tách thửa được không?
Thông tin liên hệ:
Vấn đề “Thủ tục đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với pháp nhân thương mại năm 2023” đã được Luật sư X giải đáp thắc mắc ở bên trên. Với hệ thống công ty Luật sư X chuyên cung cấp dịch vụ pháp lý trên toàn quốc. Chúng tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc của quý khách hàng liên quan tới Chuyển đất ruộng lên thổ cư. Với đội ngũ luật sư, chuyên viên, chuyên gia dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ giúp quý khách giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm chi phí và ít đi lại. Chi tiết vui lòng liên hệ tới hotline: 0833102102
Câu hỏi thường gặp:
Tại Điều 75 Bộ luật dân sự 2015 có quy định, pháp nhân thương mại và pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.
Phải đáp ứng đủ 3 điều kiện:
Hành vi phạm tội ở một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của pháp nhân; mà đã gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Thiệt hại xảy ra được đóng khung, giới hạn ở phạm vi tính mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Thiệt hại phải có khả năng khắc phục trên thực tế.
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm được quy định tại Điều 193 Bộ luật hình sự là tội có hình phạt tiền đối với pháp nhân khi vi phạm là cao nhất. Pháp nhân khi vi phạm tội này có thể bị phạt tiền từ 9 tỷ đồng đến 18 tỷ đồng