Điều kiện để được giảm mức án đã tuyên

bởi

Khi nào đủ điều kiện để được giảm mức án đã tuyên là câu hỏi chúng tôi nhận được rất nhiều sự quan tâm của quý độc giả. Điều kiện để được giảm mức án đã tuyên tùy thuộc vào từng độ tuổi mà điều kiện được áp dụng cũng khác nhau. Vì vậy trong nội dung bài viết hôm nay Luật sư X sẽ tư vấn chi tiết quy định pháp luật về điều kiện để được giảm mức án đã tuyên. Hãy cùng Luật sư X theo dõi trong bài viết dưới đây nhé!

Cơ sở pháp lý

Nội dung tư vấn

Khái niệm giảm mức án

Người bị kết án cải tạo không giam giữ; nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định và có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của cơ quan; tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát; giáo dục, Toà án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.

Người bị kết án phạt tù, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định và có nhiều tiến bộ; thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù; Toà án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.

Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt được Toà án quyết định cho họ được chấp hành hình phạt với mức ít hơn mức hình phạt của bản án đã tuyên.

Theo đó, chúng ta có thể nhận thấy, bản chất pháp lý của việc giảm mức án là người bị kết án khi đang chấp hành hình phạt được Toà án quyết định cho họ; được chấp hành hình phạt với mức ít hơn mức hình phạt mà đáng ra họ phải thực hiện như đã tuyên, được căn cứ vào sự tiến bộ trong thời gian chấp hành hình phạt.

Quy định pháp luật về giảm mức án đã tuyên

Đối với quy định chung, tại Điều 63 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017); quy định cụ thể về giảm mức hình phạt đã tuyên như sau:

Điều 63. Giảm mức hình phạt đã tuyên

Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ:

Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân; nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định; có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự; thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền; Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.

Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ; hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân.

Như vậy, có thể thấy khi người phạm tội chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định; và có nhiều tiến bộ và sau khi đã thực hiện được một phần nghĩa vụ mà luật quy định; thì đây sẽ là một trong những điều kiện được xem xét để giảm mức hình phạt

1. Một người có thể được giảm nhiều lần; nhưng phải bảo đảm chấp hành được một phần hai mức hình phạt đã tuyên.

Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù; và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm.

Theo quy định trên thì pháp luật không giới hạn số lần giảm án; tuy nhiên, khi người phạm tội được giảm án nhưng phải đảm bảo việc chấp hành được 1/2 mức hình phạt đã tuyên. Ngoài ra, đối với người bị kết án tù chung thân; thì điều kiện phả đảm bảo là chấp hành hình phạt là 20 năm theo quy định pháp luật.

2. Trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân; thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm tù sau khi đã chấp hành được 15 năm tù; và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành là 25 năm.

3. Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý; thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được một phần hai mức hình phạt chung.

4. Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới nghiêm trọng; rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung; hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân; thì việc xét giảm án thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều này.

5. Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật này; thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm; và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.

Như vậy, theo quy định trên có thể thấy tùy thuộc vào người phạm tội bị kết án bao nhiêu; thì mức hình phạt cũng như điều kiện để được giảm hình phạt tối đa là bao nhiêu. Theo đó, người phạm tội không bị giới hạn số lần được giảm án; tuy nhiên người phạm tội phải đảm bảo thời hạn thực tế chấp hành hình phạt.

Giảm mức án đã tuyên cho người dưới 18 tuổi

Ngoài quy định chung được nêu trên; đối với người dưới 18 tuổi còn được áp dụng các điều kiện riêng để được giảm mức hình phạt đã tuyên cụ thể:

Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017); quy định “Giảm mức hình phạt đã tuyên” như sau:

1. Người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù; nếu có tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn; thì được Tòa án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến 04 năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên.

2. Người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù; nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo; thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

3. Người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai; hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn; thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại.

Như vậy, có thể thấy điều kiện để được giảm mức hình phạt đã tuyên của người dưới 18 tuổi ít hơn đối với điều kiện mà người trên 18 tuổi phạm tội. Theo đó, mức thời gian mà người dưới 18 tuổi phạm tội chấp hành hình phạt thực tế ít hơn mức mà người trên 18 tuổi phải thực hiện thực tế.

Từ quy định về giảm mức hình phạt đã tuyên có thể thấy tùy thuộc vào lứa tuổi; mức độ phạm tội, hình phạt đã tuyên và ý thức trong quá trình chấp hành hình phạt mà người phạm tội sẽ được giảm mức hình phạt đã tuyên khác nhau.

Hy vọng những thông tin Luật sư X cung cấp hữu ích với bạn đọc!

Để biết thêm thông tin chi tiết, tham khảo thêm dịch vụ tư vấn của Luật sư X hãy liên hệ 0833102102

Mời bạn xem thêm: Phạm tội giết người có đơn bãi nại có phải chịu trách nhiệm hình sự không?

Câu hỏi thường gặp

Phạm tội chưa đạt là gì?

Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.

Chuẩn bị phạm tội là gì?

Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện; hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm; trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là gì?

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng; tuy không có gì ngăn cản.
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác; thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.

5/5 - (1 bình chọn)

Liên hệ để được hỗ trợ tốt nhất

Có thể bạn quan tâm