Ai cũng biết tham gia giao thông thì phải đội mũ bảo hiểm với người điều khiển xe đạp máy, xe mô tô, … và các loại xe gắn máy tương tự khác. Tuy nhiên, đội những chiếc mũ 20k, 30k liệu có đúng quy định của pháp luật hay không? Tham khảo bài viết dưới đây của Luật sư X.
Căn cứ pháp lý
Nội dung tư vấn
Quy định về đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông
Người điều khiển, người ngồi trên xe phải đội mũ bảo hiểm và cài quai đúng cách. Cụ thể được quy định tại khoản 2 Điều 30 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định:
“2. Người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy phải đội mũ bảo hiểm có cài quai đúng quy cách”.
Về chất lượng của mũ bảo hiểm thì căn cứ vào Thông tư liên tịch 06/2013/TTLT-BKHCN-BCT-BCA-BGTVT của Liên bộ Khoa học và Công nghệ, Công Thương, Công an và Giao thông Vận ban hành có quy định:
Điều 3. Quy định về mũ bảo hiểm, kinh doanh mũ bảo hiểm
1. Mũ bảo hiểm cho người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), xe đạp máy đội khi tham gia giao thông (sau đây viết tắt là mũ bảo hiểm) là mũ có đủ các tính năng sau:
a) Có cấu tạo đủ 3 bộ phận: vỏ mũ, đệm hấp thụ xung động bên trong vỏ mũ (đệm bảo vệ) và quai đeo; có kiểu dáng đáp ứng yêu cầu quy định tại khoản 2 Điều 4 của Thông tư liên tịch này;
b) Đã được chứng nhận hợp quy, công bố hợp quy phù hợp quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 2 : 2008/BKHCN ban hành kèm theo Quyết định số 04/2008/QĐ-BKHCN ngày 28 tháng 4 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ; được gắn dấu hợp quy CR, ghi nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật.
Như vậy, quy chuẩn của một chiếc mũ bảo hiểm phải có cấu tạo đủ 03 bộ phận: Vỏ mũ, đệm bảo vệ bên trong vỏ mũ và quai đeo. Hơn thế nữa, phải được chứng nhận hợp quy, công bố hợp quy bằng việc được gắn dấu hợp quy CR, ghi nhãn hàng hóa theo quy định.
Bằng những yêu cầu như vậy, những chiếc mũ chỉ có giá thành là 20k-30k trên đường sẽ không đáp ứng được yêu cầu theo quy định.
Việc đeo mũ kém chất lượng có thể gây ảnh hưởng đến tính mạng/sức khỏe của người điều khiển phương tiện giao thông. Tuy nhiên, hiện tượng này lại xảy ra rất nhiều. Đa phần người tham gia sử dụng mũ bảo hiểm này nhằm đối phó với cảnh sát giao thông.
Đội mũ bảo hiểm kém chất lượng, có bị phạt không?
Trên thực tế, không ai có thể kiểm soát được số lượng mũ bảo hiểm dởm được lưu hành. Bởi vậy, chưa có một quy định chính thức nào về mức xử phạt với người tham gia giao thông sử dụng mũ bảo hiểm kém chất lượng.
Cụ thể, chỉ có các quy định sau liên quan đến sai phạm về mũ bảo hiểm. Cụ thể tại Điểm i, điểm k điều 6 Nghị định 46/2016/NĐ-CP quy định:
“3. Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
i) Người điều khiển, người ngồi trên xe không đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” hoặc đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” không cài quai đúng quy cách khi tham gia giao thông trên đường bộ;
k) Chở người ngồi trên xe không đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” hoặc đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” không cài quai đúng quy cách, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 06 tuổi, áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật”
Hy vọng bài viết có ích cho bạn!
Thông tin liên hệ với Luật sư X
Luật sư X là đơn vị Luật uy tín; chuyên nghiệp, được nhiều cá nhân và tổ chức đặt trọn niềm tin. Được hỗ trợ và đồng hành giải quyết khó khăn về mặt pháp lý của quý khách là mong muốn của Luật sư X. Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ của Luật Sư X hãy liên hệ
Hotline: 0833.102.102
Câu hỏi liên quan
Pháp luật đã cho phép người dân nộp tiền phạt trực tiếp tại ngân hàng thương mại nơi Kho bạc nhà nước ủy nhiệm thu tiền phạt được ghi trong quyết định xử phạt. Điều này đã tạo thuận lợi cho việc quản lý tiền phạt, đặc biệt tại miền núi; vùng sâu vùng xa – những nơi có khó tiếp cận và di chuyển để có thể đến Kho bạc nhà nước nộp tiền phạt.
Khi có hiệu lệnh của nguời điều khiển giao thông.
Trường hợp xe ưu tiên.
Vạch kẻ kiểu mắt võng.
Có đèn tín hiệu, biển báo cho phép tiếp tục di chuyển.
Vượt đèn đỏ trong một số tình huống đặc biệt.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 78 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 và Điều 5 Thông tư 153/2013/TT-BTC quy định về thời hạn nộp phạt vi phạm giao thông, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được quyết định xử phạt, cá nhân; tổ chức bị phạt phải nộp tiền tại Kho bạc Nhà nước hoặc nộp vào tài khoản của Kho bạc Nhà nước được ghi trong quyết định xử phạt. Nếu quá thời hạn nêu trên sẽ bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt và cứ mỗi ngày chậm nộp thì cá nhân; tổ chức vi phạm sẽ phải nộp thêm 0,05% trên tổng số tiền phạt chưa nộp. Không tính trường hợp chậm nộp phạt đối với các trường hợp được hoãn thi hành quyết định xử phạt.