Khi nào thì có thể bảo lĩnh hay đặt tiền để bị can, bị cáo tại ngoại ? Tôi có một trường hợp là chị tôi tên N.H.T.T làm cho công ty A.L.3 trong quá trình làm việc cho công ty thì có hành vi gây thiệt hại tài sản và bị cơ quan điều tra khởi tố về tội Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được quy định tại Khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự 2015. Vậy tôi có thể bảo lĩnh hay đặt tiền để giúp chị ấy không bị tạm giam hay không? Và quy định của pháp luật về vấn đề này như thế nào?
Căn cứ:
- Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
- Thông tư 06/2018/TT-BCA
Nội dung tư vấn
1. Bảo lĩnh và đặt tiền?
Bảo lĩnh và đặt tiền để đảm bảo là hai trong số các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng Hình sự (bao gồm: bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để đảm bảo, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh).
Điều đầu tiên cần phải khẳng định rằng đây là hai biện pháp chỉ được áp dụng trong trường hợp bị can, bị cáo bị tạm giam (tức là đã có quyết định khởi tố, đưa vụ án ra xét xử). Không áp dụng trong trường hợp bị tạm giữ. Điều này được thể hiện tại Điều 121 và 122 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:
Điều 121. Bảo lĩnh
1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.
Điều 122. Đặt tiền để đảm bảo
1. Đặt tiền để đảm bảo là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để đảm bảo.
Cũng từ quy định trên có thể thấy dù cùng là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam, có tính chất ít nghiêm khắc so với tạm giạm, giống nhau về người có thẩm quyền áp dụng nhưng có một điều khác nhau cơ bản đó là bảo lĩnh là dùng uy tín để bảo lĩnh; còn biện pháp đặt tiền để đảm bảo (Điều 122 BLTTHS năm 2015) là dùng tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo.
2. Điều kiện để được áp dụng?
Biện pháp bảo lĩnh được quy định từ rất sớm trong pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước ta, dù là biện pháp ưu việt được quy định tại Điều 75 BLTTHS năm 1988; Điều 92 BLTTHS năm 2003, song thực tiễn áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT), dù chưa có sự tổng kết đánh giá về hiệu quả của biện pháp này, cũng như các nguyên nhân hạn chế ra sao từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhưng từ thực tiễn cho thấy, rất ít được các CQTHTT áp dụng do còn thiếu nhiều quy phạm hướng dẫn cụ thể cần làm sáng tỏ xung quanh chế định này như: Theo quy định có thể thấy bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay cho tạm giam, tuy nhiên, pháp luật chưa quy định cụ thể những loại tội phạm nào thì được bảo lĩnh, vì vậy, việc có được bảo lĩnh cho bị can, bị cáo đang bị tạm giam hay không là hoàn toàn tùy thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Thậm chí bị can, bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và là người già, bệnh nặng; người tàn tật nặng hoặc đặc biệt nặng nhưng vẫn không được cho bảo lĩnh.
Còn đối với trường hợp đặt tiền để bảo đảm. Trước đây Điều 3 Thông tư liên tịch số 17/2013/TTLT-BTP-BCA- BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn về việc đặt tiền để đảm bảo theo quy định (lúc đó là Điều 93 Bộ luật TTHS 2003) có quy định cụ thể các trường hợp được áp dụng biện pháp đặt tiền, do đó việc thực thi có phần dễ dàng hơn so với biện pháp bảo lĩnh. Tuy nhiên cùng với sự ra đời của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì thông tư trên cũng đã được thay thế bởi Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC và không hiểu vì sao quy định về điều kiện áp dụng biện pháp đặt tiền đã bị xoá bỏ. Thế là một lần nữa các cơ quan tiến hành tố tụng lại cảm thấy lúng túng khi áp dụng và thực tế cho thấy nhiều nơi đã không áp dụng thống nhất.
Như vậy về điều kiện áp dụng cả hai trường hợp bảo lĩnh và đặt tiền đều phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng. Và trên thực tế vì lo ngại những vụ việc phát sinh thêm trong quá trình cho tại ngoại nên các cơ quan chức năng thường trọn giải pháp an toàn là tiếp tục tạm giam
3. Quy định về bảo lĩnh và đặt tiền để bảo đảm trong Tố tụng hình sự
Hiện nay pháp luật có những quy định để có thể làm căn cứ áp dụng vào thực tế. Để dễ hình dung thì các bạn có thể xem bảng tóm tắt này:
BẢO LĨNHĐẶT TIỀN Đối tượng được áp dụngBị can, bị cáo bị tạm giamBị can, bị cáo bị tạm giamChủ thể nhận Cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức
Chỉ có thể là cá nhân.
Cá nhân đó có thể là chính bị can, bị cáo, người thân thích của bị can, bị cáo hoặc người đại diện của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.) – Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Chủ thể có thẩm quyền ra quyết định
– Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
– Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
– Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
– Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
(Khoản 4 Điều 121 Bộ luật TTHS 2015)
Giống như đối với bảo lĩnh
(Khoản 3 Điều 122 Bộ luật TTHS 2015)
Điều kiện về chủ thể, đối tượng
– Trường hợp người đứng ra nhận bảo lĩnh là cơ quan, tổ chức thì bị can, bị cáo phải là người của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
– Trường hợp người nhận bảo lĩnh là cá nhân thì cá nhân đó phải là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.
(Khoản 2 Điều 121 Bộ luật TTHS 2015)
– Tiền đặt để bảo đảm là Việt Nam đồng, thuộc sở hữu hợp pháp của bị can, bị cáo, người thân thích của bị can, bị cáo hoặc người đại diện của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
– Về giá trị số tiền đặt:
a) 30 triệu đồng đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
b) 100 triệu đồng đối với tội phạm nghiêm trọng;
c) 200 triệu đồng đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
d) 300 triệu đồng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trường hợp bị can, bị cáo là các đối tượng theo quy định thì số tiền có thể quyết định mức tiền phải đặt để bảo đảm thấp hơn nhưng không dưới một phần hai (1/2) mức tương ứng quy định trên
(Điều 4 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC)
Về thời hạn áp dụng
Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.
(Khoản 5 Điều 121 Bộ luật TTHS 2015)
Thời hạn đặt tiền không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định tại Bộ luật này. Thời hạn đặt tiền đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền đã đặt.
(Khoản 4 Điều 122 Bộ luật TTHS 2015)
Nghĩa vụ của bị can, bị cáo
a) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
b) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
c) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
(Khoản 3 Điều 121 Bộ luật TTHS 2015)
a) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
b) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
c) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này
(Khoản 2 Điều 122 Bộ luật TTHS 2015)
Xử lí trong trường hợp vi phạmTrường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam.
Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam và số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
– Còn nếu chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì VKS, Toà án trả lại cho họ số tiền đã đặt.
Từ tóm tắt trên chúng ta có thể rút ra các vấn đề sau:
Thứ nhất, đối tượng được phép đứng ra nhận bảo lĩnh có thể là cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh cho người của cơ quan, tổ chức mình hoặc có thể là cá nhân đứng ra bảo lĩnh, còn đối với biện pháp đặt tiền thì chỉ có thể là cá nhân mà thôi
Thứ hai, xử lí vi phạm trong trường hợp đối với bảo lĩnh do được thực hiện bằng uy tín của cá nhân, tổ chức và chưa có quy định xử lí cụ thể đối với họ nên trong trường hợp bên nhận bảo lĩnh để bị can bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì rất khó xử lí.
Thứ ba, đối tượng xét giảm mức đặt tiền được quy định tại Điều 4 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC là các đối tượng sau:
- Bị can, bị cáo là thương binh, bệnh binh, là người được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Nhà giáo nhân dân, Thầy thuốc nhân dân hoặc được tặng Huân chương, Huy chương kháng chiến, các danh hiệu Dũng sĩ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là con đẻ, con nuôi hợp pháp của liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng, của gia đình được tặng bằng “Gia đình có công với nước”;
- Bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Từ những quy định trên có thể thấy biện pháp bảo lĩnh và đặt tiền sẽ dẫn đến hệ quả là họ được phép sống và tiếp xúc với xã hội bên ngoài mà không bị giam giữ trong cơ sở tạm giạm. Nhìn thoáng qua có phần giống với một biện pháp ngăn chặn khác cũng được quy định trong bộ luật TTHS đó là “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Tuy nhiên giữa 2 bên biện pháp này có điểm khác nhau cơ bản đó là nếu bảo lĩnh + đặt tiền được thực hiện theo yêu cầu của bị can, bị cáo (người đại diện của họ) thì biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp được thực hiện từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, không phụ thuộc vào yêu cầu của bất kì ai. Hay nói cách khác bị can, bị cáo (người đại diện của họ) có thể chủ động thực hiện quyền này chứ không phải bị động như các trường hợp khác.
Thực tế do xuất phát từ những quy định của pháp luật chưa thật sự cụ thể và rõ ràng và tâm lí lo ngại tình huống phát sinh trong trường hợp bị can, bị cáo được tại ngoại rồi bỏ trốn khỏi nơi cư trú gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử; thậm chí là có trường hợp bị can, bị cáo trong thời gian được bão lĩnh, đặt tiền đã gây những hậu quả ở bên ngoài, làm phát sinh thêm các vấn đề khác gây áp lực đến các cơ quan tiến hành tố tụng để giải quyết.
Ví dụ trường hợp luật quy định cho phép đặt tiền ngay cả đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng với số tiền là ba trăm triệu đông (300.000.000 đồng) nhưng một vấn đề mà ai cũng nhận ra là đối với loại tội phạm này thì khả năng gây nguy hiểm cho xã hội và nguy cơ bỏ trốn nếu cho tại ngoại sẽ rất lớn. Do đó đến nay các biện pháp này vẫn còn thực hiện khá ít trên thực tế và chưa mang tính phổ biến.
Quay lại với vấn đề là đối với trường hợp của N.H.T.T thì có được bảo lĩnh hay không? Câu trả lời là có thể. Giả sử nếu muốn bảo lĩnh hay đặt tiền để N.H.T.T không bị tạm giam thì phải có những yêu cầu sau:
- Nếu chọn bảo lĩnh thì ít nhất phải có 2 người từ đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh, giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập
Hoặc là công ty A.L.3 sẽ đứng ra bảo lĩnh. Khi ấy thì cần phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu của A.L.3.
- Nếu chọn đặt tiền thì số tiền phải đặt trong trường hợp này sẽ là 30 triệu đồng. Do N.H.T.T bị khởi tố theo Khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự 2015 (có hình phạt tù tố đa là 03 năm nên theo quy định thuộc tội ít nghiêm trọng).
Trên đây là những kiến thức cơ bản có liên quan. Hy vọng bài viết hữu ích cho mọi người !
Khuyến nghị
- LSX là thương hiệu hàng đầu về dịch vụ luật sư tranh tụng tại Việt Nam
- Nội dung tư vấn pháp luật mà LSX cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo. Để có những những tư vấn rõ ràng và cụ thể hơn, hãy liên hệ với chúng tôi ngay