Bản án, quyết định của tòa án là kết quả của hoạt động tư pháp trong việc giải quyết các vụ án, vụ việc. Bản án cũng như các quyết định của tòa án chỉ có ý nghĩa thực sự khi được chấp hành. Hành vi cố ý không chấp hành bản án; hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật đã trực tiếp xâm phạm hoạt động đúng dẫn của cơ quan thi hành án. Hành vi này còn vô hiệu hóa kết quả của các hoạt động tư pháp đã được thực hiện. Người thực hiện các hành vi này được quy vào tội không chấp hành án. Bài viết dưới đây, Luật sư X sẽ giúp bạn đọc tìm hiểm về Tội không chấp hành án.
Căn cứ pháp lý
Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017
Nội dung tư vấn
Tội không chấp hành án (Điều 380 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Điều 380 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:
1. Người nào có điều kiện mà không chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Chống lại chấp hành viên hoặc người đang thi hành công vụ;
b) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
c) Tẩu tán tài sản.
3. Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”
Khách thể của tội không chấp hành án
Hành vi phạm tội xâm phạm đến hoạt động thi hành án của các cơ quan; tổ chức có trách nhiệm thi hành án.
Chủ thể của tội không chấp hành án
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Chủ thể là người có đủ điều kiện về độ tuổi cụ thể từ đủ 16 tuổi trở lên; hoặc từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự.
Chủ thể của tội này là người có nghĩa vụ phải chấp hành các bản án; hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Họ có thể là bị cáo trong vụ án hình sự; hoặc là đương sự của vụ án dân sự, hôn nhân gia đình,…
Mặt khách quan của tội không chấp hành án
Hành vi khách quan của tội phạm được quy định là hành vi dưới hình thức không hành động. Đó là hành vi không chấp hành bản án; hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Bản án và quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ pháp lý cho chủ thể nhất định. Nếu chủ thể này có đủ điều kiện mà không thực hiện nghĩa vụ đó; thì có đủ cơ sở buộc họ phải chịu trách nhiệm hình sự về việc không hành động của mình.
Bản án hoặc quyết định của tòa án có thể ở các lĩnh vực khác nhau thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án như lĩnh vực hình sự; lĩnh vực dân sự; lĩnh vực hôn nhân và gia đình;…
Dấu hiệu xác định hành vi là phạm tội. Đó là hành vi không chấp hành bản án; hoặc quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật cấu thành tội phạm trong các trường hợp sau:
– Chủ thể đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật. Điều đó có nghĩa, hành vi không chấp hành bản án; hoặc quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật trong trường hợp chủ thể chưa bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành không bị coi là hành vi khách quan của tội phạm. Chỉ bị coi là hành vi khách quan của tội phạm nếu sau khi đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế mà chủ thể vẫn tiếp tục không chấp hành bản án; hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
– Chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi không chấp hành bản án; hoặc quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Mặt chủ quan của tội phạm này
Dấu hiệu mặt chủ quan của tội phạm này là lỗi cố ý của người phạm tội. Người phạm tội biết mình có nghĩa vụ phải chấp hành bản án; hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Họ cũng biết đã có biện pháp cưỡng chế cần thiết được áp dụng để buộc họ phải chấp hành bản án; hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Hình phạt của tội phạm này
Điều luật 380 cũng quy định khung hình phạt tội không chấp hành án. Cụ thể quy định 02 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung.
- Khung hình phạt cơ bản được quy định là hình phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Khung hình phạt đối với hành vi có đầy đủ các dấu hiệu của mặt khách quan.
- Khung hình phạt tăng nặng được quy định là hình phạt tù từ 02 năm đến 05 năm. Khung này được áp dụng cho trường hợp chủ thể đã có hành vi chống lại chấp hành viên hoặc người đang thi hành công vụ (để ngăn cản việc thi hành án); hoặc đã tẩu tán tài sản; hoặc có thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt (là thủ đoạn có tính gian dối cao, gây khó khăn lớn cho cơ quan thi hành án).
- Khung hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 3 (có thể được áp dụng). Ngoài việc phải chịu một trong hai hình phạt chính nêu trên; người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Thông tin liên hệ
Trên đây là phân tích của Luật sư X về Tội không chấp hành án bị phạt bao nhiêu năm tù theo pháp luật.
Để giải đáp thắc mắc, nhận thêm thông tin và nhận thêm sự tư vấn; hoặc dịch vụ pháp lý từ luật sư hãy liên hệ hotline 0833 102 102.
Câu hỏi thường gặp
Theo quy định của điều 380 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì “đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” là một trong thành tố cấu thành tội phạm. Do đó người có điều kiện mà không chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; nhưng chưa bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật thì có thể chưa cấu thành tội phạm này.
Nếu hành vi không chấp hành án và còn chống người thi hành công vụ hoặc gây thương tích, làm chết người hoặc gây mất trật tự trị an, xã hội… thì ngoài xử lý về tội không chấp hành án; người phạm tội còn có thể bị xử lý về các tội phạm khác tùy vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi.
Theo điểm c khoản 2 Điều 380 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; hành vi không chấp hành án đồng thời trong quá trình đó có tiến hành tẩu tán tài sản thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.