Thời gian gần đây, số lượng các vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản diễn ra ngày càng nhiều. Các đối tượng ngày càng tinh vi và có nhiều thủ đoạn hơn để thực hiện hành vi lừa đảo. Liên quan tới vấn đề này, chúng tôi sẽ đề cập tới một vụ việc đang gây xôn xao dư luận gần đây. Đây là vu việc về một nhóm đối tượng vờ chạy án cho nghi can lô đề để lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Tóm tắt vụ việc
Nngày 19/6, Công an TP Buôn Ma Thuột triệt phá đường dây đánh bạc. Quá trình điều tra, cảnh sát bắt giữ, làm việc với hơn 20 người trong đường dây, trong đó có Nguyễn Thị Hoàng Oanh.
Ngày 6/8, cơ quan điều tra triệu tập Oanh để làm rõ hành vi đánh bạc. Qua đấu tranh, Oanh còn thừa nhận, vì lo sợ bị công an bắt giữ, chị ta đã liên lạc với Nguyễn Vy Hoàng Thảo nhờ “chạy án” để không vướng vào lao lý.
Không quen biết ai có khả năng “lo lót”, song Thảo vẫn nhận lời Oanh và ra giá 400 triệu đồng. Nhận tiền xong, Thảo lấy 70 triệu đồng, còn lại đưa cho Tân nhờ tìm người lo cho Oanh. Tân nhận 330 triệu đồng từ Thảo sau đó chuyển cho Hiền và Mai 280 triệu đồng để tìm người giúp đỡ. Tuy nhiên, nhóm này sau đó chia nhau tiêu xài, không thực hiện cam kết.
Vậy với hành vi vờ chạy án để lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên sẽ bị xử lý như thế nào? Hãy cùng Luật sư X tìm hiểu thông qua bài viết dưới đây nhé!
Căn cứ pháp lý
Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017
Hành vi vờ chạy án để chiếm đoạt tài sản bị khép vào tội gì?
Dưới góc nhìn pháp lý; hành vi vờ chạy án để chiếm đoạt tài sản được coi là một hành vi dùng thủ đoạn gian dối để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác.
Cụ thể, đối tượng có thể dùng thủ đoạn gian dối như: đưa ra thông tin giả. Từ đó, làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội.
Cấu thành tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản?
Chủ thể của tội phạm
Theo quy định tại điều 12 BLHS về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm không phải là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Tức là chỉ có người trên 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu.
Mặt khách quan của tội phạm
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi của một người bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác.
Thủ đoạn gian dối được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản.
Thủ đoạn gian dối của người phạm tội bao gìơ cũng phải có trước khi có việc giao tài sản giữa người bị hại với người phạm tội thì mới là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Nếu thủ đoạn gian dối lại có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà thủ đoạn gian dối đó có thể là hành vi che giấu tội phạm; hoặc là hành vi phạm tội khác như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Hậu quả và mối quan hệ nhân quả:
Hậu quả của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt
Mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Tội này không thể diễn ra dưới hình thức lỗi vô ý.
Hành vi vờ chạy án để lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị xử lý như thế nào?
Truy cứu trách nhiệm hình sự tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điều 174, Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định các mức án sau:
Khung 1:
Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Khung 2:
Phạm tội lừa đảo thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
Khung 3:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
Khung 4:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây; thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Án phạt bổ sung tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng; cấm đảm nhiệm chức vụ; cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Thực hiện hành vi vờ chạy án để lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo nhóm thì phải chịu mức án nào?
Ngoài ra, trong vụ việc này, còn xuất hiện dấu hiệu đồng phạm trong hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Đồng phạm là gì?
Điều 17, Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định như sau về đồng phạm:
1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.”
Đồng phạm với tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị xử lý ra sao?
Theo quy định của pháp luật; đồng phạm phải chịu trách nhiệm hình sự về toàn bộ tội phạm; như vậy tất cả những người đồng phạm đều bị truy tố xét xử theo cùng một tội danh, cùng một điều luật và trong phạm vi chế tài của điều luật ấy.
Cụ thể, tại điều 58, Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định như sau:
Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.
Giải quyết tình huống
Hiện tại, vụ lừa đảo của nhóm đối tượng trên vẫn đang được tiếp tục điều tra. Với hành vi vờ chạy án để chiếm đoạt tài sản, để xác định được chính xác mức án cho từng thành viên trong nhóm đối tượng cần bổ sung thêm các tình tiết điều tra từ các đơn vị chức năng.
Với các tình tiết hiện tại đã thu thập được; nhóm đối tượng sẽ bị truy cứu về tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Mức án của từng đối tượng sẽ tuân theo quy định tại điều 174, Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017; và tuân theo quy định về việc quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm theo điều 58 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Lừa đưa người sang Hàn Quốc, mức án nào cho nữ giám đốc
- Giả danh cán bộ Sở TN&MT lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị xử lý ra sao?
- Nam thanh niên lừa đảo qua mạng xã hội có thể đối mặt mức án 3 năm tù
Trên đây là tư vấn của chúng tôi về “Hành vi lừa đảo vờ chạy án để chiếm đoạt tài sản bị xử lý ra sao?” . Nếu có thắc mắc gì về vấn đề này xin vui lòng liên hệ: 0833102102
Câu hỏi thường gặp
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản tài sản đó, hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
Với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thì từ ban đầu người phạm tội đã có ý định dùng các biện pháp thủ đoạn gian dối để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Còn với tội lạm dụng tín nhiệm, ban đầu người phạm tội chưa có ý định thực hiện hành vi chiếm đoạt, mà có thể vì lòng tham khi được tin tưởng giao giữ hộ tài sản mà hình thành nên hành vi chiếm đoạt.