Thời hạn bảo hộ của quyền tác giả được coi là quyền cơ bản của những người tạo ra hoặc sở hữu sản phẩm. Tuy nhiên không phải ai cũng nắm rõ được thời gian mà pháp luật quy định về quyền tác giả. Vậy thời hạn bảo hộ của quyền tác giả được xác định như thế nào?
Căn cứ pháp lý
- Luật sở hữu trí tuệ năm 2005
- Nghị định số 22/2018/NĐ-CP về Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan.
Nội dung tư vấn
1. Quy định pháp luật về thời hạn bảo hộ quyền tác giả
Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Quyền tác giả bao gồm các quyền về nhân thân theo Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 như:
- Đặt tên cho tác phẩm;
- Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
- Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
- Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Và các quyền tài sản theo Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
a) Làm tác phẩm phái sinh;
b) Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
c) Sao chép tác phẩm;
d) Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
đ) Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;
e) Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
Từ đó, có thể thấy thời hạn bảo hộ của quyền tác giả được hiểu là khoảng thời gian mà tác giả được pháp luật đảm bảo về các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc đứng tên sở hữu.
2. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
2.1. Thời hạn bảo hộ của quyền tác giả đối với quyền nhân thân
Thời hạn bảo hộ của quyền tác giả được pháp luật quy định bảo hộ vô thời hạn đối với những quyền nhân thân như:
- Quyền đặt tên cho tác phẩm và quyền đứng tên hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố và sử dụng.
- Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Còn đối với quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm thì không được xác định vô thời hạn.
2.2. Thời hạn bảo hộ của quyền tác giả đối với quyền tài sản
Thời hạn bảo hộ các quyền tài sản theo khoản 2 Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Điều 24 của Nghị định 22/2018/ NĐ-CP được xác định thời gian cụ thể:
- Đối với tác phẩm di cảo thì thời hạn bảo hộ của quyền tác giả là năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên.
- Đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng và tác phẩm khuyết danh, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên thời hạn bảo hộ là năm mươi năm.
- Đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu được định hình thì thời hạn bảo hộ là năm mươi năm; thời hạn tính từ khi tác phẩm được định hình nếu tác phẩm chưa được công bố.
- Đối với tác phẩm khuyết danh, các tác phẩm khác thì khi có thông tin về tác giả xuất hiện, lúc này thời hạn bảo hộ được xác định là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết. Nếu không tác Nhà nước sẽ là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm này.
- Đối với những tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ sẽ được tính đến năm thứ năm mươi sau năm mà đồng tác giả cuối cùng chết.
Đồng thời, Luật sở hữu trí tuệ cũng quy định rõ là những trường hợp như trên sẽ chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.
Như vậy, thời hạn bảo hộ của quyền tác giả chỉ xác định vô thời hạn đối với một số quyền nhân thân nhất định, còn lại sẽ áp dụng các mức thời hạn theo pháp luật quy định. Việc đặt ra các mức thời hạn đối với quyền tác giả là biện pháp nhằm bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của tác giả đó, vì vậy các hành vi sử dụng tác phẩm trái với các quy định về thời hạn bảo hộ sẽ bị coi là hành vi xâm phạm đến quyền tác giả.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều người tò mò về việc nếu hết thời hạn bảo hộ của quyền tác giả thì tác phẩm sẽ ra sao? Khi quyền tác giả hết thời hạn bảo hộ thì tác phẩm sẽ thuộc về công chúng, nghĩa là không cần xin phép để sử dụng sản phẩm, nhưng phải đảm bảo là khi sử dụng sẽ không làm mất đi bản chất của tác phẩm cũng như quyền nhân thân của tác giả sáng tạo hoặc sở hữu tác phẩm đó.
Hy vọng bài viết trên góp phần giúp các bạn tham khảo và hiểu thêm về vấn đề!